Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 thực hiện bốn phép tính cơ bản với số tự nhiên

docx 16 trang lop4 01/02/2024 1990
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 thực hiện bốn phép tính cơ bản với số tự nhiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 thực hiện bốn phép tính cơ bản với số tự nhiên

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 thực hiện bốn phép tính cơ bản với số tự nhiên
 A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI
 Như chúng ta đã biết, trong chương trình Tiểu học cùng với môn Tiếng 
Việt, môn Toán giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong các môn học. Mục tiêu của 
việc dạy - học môn Toán ở Tiểu học hiện nay không chỉ hướng dẫn cho học sinh 
phát hiện và nắm vững kiến thức, quy tắc, công thức toán học hay rèn luyện kỹ 
năng tính toán, tìm ra kết quả cho những bài toán có sẵn mà quan trọng hơn là 
phải làm sao trang bị cho học sinh phương pháp tự hoạt động, tự phát hiện và tự 
chiếm lĩnh kiến thức; tạo cho các em khả năng tự học, khả năng khái quát hóa 
vừa sức, khả năng nắm vững kiến thức lý thuyết trừu tượng. Từ đó, hình thành 
cho các em khả năng đưa ra được các bước giải quyết các bài toán cũng như các 
tình huống đa dạng nảy sinh trong học tập và trong đời sống. Trong quá trình 
dạy học của bản thân tôi nhận thấy đa số học sinh đã biết đặt tính và tính thành 
thạo các phép tính cơ bản với số tự nhiên. Song bên cạnh đó cũng có những em 
khả năng tính toán còn chậm, nhầm lẫn khi thực hiện tính các phép tính cơ bản 
dẫn đến kết quả sai. Một số em tỏ ra không thích khi học toán vì thế việc truyền 
đạt kiến thức cho các em trong những tiết toán đã trở nên khó khăn. Học sinh 
chưa nắm được các bước thực hiện phép tính: thường là những em không tập 
trung, uể oải và ít khi làm bài tập đầy đủ. 
 Đứng trước thực trạng nêu trên một vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để 
giúp học sinh yêu thích môn Toán và thực hiện thành thạo 4 phép tính cơ bản ? 
Làm thế nào để chất lượng học toán được nâng lên ? Xuất phát từ những lý do 
trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu, tìm tòi qua các tài liệu, trao đổi với các bạn 
đồng nghiệp để hệ thống và viết bản kinh nghiệm đưa ra những giải pháp tốt 
nhất giúp các em có những kĩ năng trong tính toán để làm tiền đề cho việc tiếp 
thu kiến thức ở các lớp sau: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 thực hiện 
bốn phép tính cơ bản với số tự nhiên”.
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Ở bậc Tiểu học năng lực tư duy và trình độ của học sinh ở từng lớp luôn 
có sự khác nhau. Qua quá trình thực tế dạy học, tìm hiểu, trao đổi với các bạn 
đồng nghiệp, tôi nhận thấy học sinh lớp 4 thường gặp nhiều khó khăn khi thực 
hiện 4 phép tính cơ bản với số tự nhiên. Ở lớp 1, 2, 3 các em chỉ mới nhận thức 
được các sự vật hiện tượng bằng tư duy trực quan hình ảnh. Nhưng từ lớp 4 các 
em đã bắt đầu phát triển tư duy trừu tượng. Muốn nhận thức được một sự vật, 
 1 bảng cộng, trừ; bảng cửu chương ở các lớp dưới. Chính vì lẽ đó tôi đã tiến hành 
nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 thực hiện bốn phép 
tính cơ bản với số tự nhiên” để góp phần nâng cao chất lượng dạy – học môn 
Toán.
V. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
 Thông qua đây tôi sẽ nêu ra các giải pháp nhằm giúp cho kĩ năng tính toán 
bốn phép tính về số tự nhiên của học sinh sẽ ngày càng được nâng cao, hình 
thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực tính toán cho học sinh. Khi 
các em học và nắm chắc 4 phép tính về số tự nhiên thì đối với số phân và số thập 
phân giúp các em dễ dàng thực hiện đúng.
 B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
 Môn Toán có tiềm năng giáo dục to lớn, nó góp phần quan trọng trong 
việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải 
quyết vấn đề. Nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập linh 
hoạt, sáng tạo; nó góp phần vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan 
trọng của con người như lao động cần cù, cẩn thận, có ý thức vượt khó khăn, 
làm việc có kế hoạch, có nền nếp và có tác phong khoa học.
 Trong chương trình môn Toán ở Tiểu học, số học là nội dung trọng tâm, 
là hạt nhân của quá trình dạy học toán từ lớp 1 đến lớp 5. Các nội dung về đại 
lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải bài toán có lời văn được tích hợp 
với nội dung số học, chúng ta dạy học dựa vào các nội dung số học và tạo ra sự 
hỗ trợ lẫn nhau giữa các nội dung của môn Toán lớp 4. Với nội dung số học, 
môn Toán lớp 4 bổ sung, tổng kết quá trình dạy học số tự nhiên và chính thức 
dạy phân số. Ở học kỳ I lớp 4, môn Toán chủ yếu tập trung vào bổ sung, hoàn 
thiện, tổng kết, hệ thống hoá, khái quát hoá (ở mức độ đơn giản, ban đầu) về số 
tự nhiên, dãy số tự nhiên, hệ đếm thập phân bốn phép tính (Cộng.trừ, nhân, chia) 
với số tự nhiên và một số tính chất của các phép tính đó. Vì vậy việc dạy học 
sinh nắm vững kiến thức về số tự nhiên mà đặc biệt là khả năng thực hiện bốn 
phép tính là một yêu cầu đặt ra cần phải thực hiện tốt. Việc giáo viên nắm vững 
kiến thức và phương pháp không chỉ có vai trò quyết định trong việc hướng dẫn 
 3 Quá trình dạy học, phần lớn giáo viên sử dụng phương pháp trực quan, giảng 
giải – minh họa, gợi mở - vấn đáp khi hình thành khái niệm phép tính, hướng 
dẫn học sinh làm bài tập để định hướng cho học sinh làm bài. Bên cạnh những 
ưu điểm của việc sử dụng các phương pháp trên, khi dạy học rèn kĩ năng thực 
hiện bốn phép tính cho học sinh giáo viên vẫn còn những hạn chế như: 
 - Trong quá trình hình thành phép cộng trừ hay nhân, chia ngay sau khi 
giảng giải và hòi – đáp, giáo viên thường rút ra công thức phép toán và yêu cầu 
học sinh nhắc lại, ít chú ý đến việc đưa ra câu hỏi gợi mở để phát huy tính tư 
duy và kĩ năng hiểu biết của học sinh. 
 - Việc tổ chức cho học sinh luyện tập với không khí buồn tẻ, do có nhiều 
dạng bài lặp lại mà giáo viên chưa chú trọng đổi mới các hình thức chữa bài tập; 
chính vì vậy tiết học thường nhàm chán, khô khan.
 - Giáo viên chưa chú tâm nhiều vào các hình thức tổ chức dạy học, làm đa 
dạng, phong phú các hoạt động học tập đối với học sinh; mà chủ yếu truyền kiến 
thức bằng cách làm theo hướng dẫn của thầy, trò học thuộc lý thuyết áp dụng 
vào làm bài tập và thời lượng lý thuyết nhiều hơn thực hành dẫn đến nhiều học 
sinh thuộc các bước, cách đặt tính những áp dụng vào làm bài tập còn nhiều hạn 
chế.
 Từ những thực tế và kinh nghiệm giảng dạy trong những năm qua, bản 
thân tôi và đồng nghiệp tại đơn vị nơi tôi công tác đã có những biện pháp nhằm 
giúp học sinh có kĩ năng thực hiện bốn phép tính với số tự nhiên đạt kết quả rất 
khả quan.
 Để nắm được một cách chính xác, khách quan thực trạng của vấn đề, tôi 
đã chọn hai lớp của khối 4 đơn vị tôi đang công tác để khảo sát. Trong đó tôi 
chọn lớp 4A làm lớp thực nghiệm và lớp 4B làm lớp đối chứng, thời gian khảo 
sát vào đầu năm học 2019 – 2020. Sau khi khảo sát thu được kết quả xếp loại 
theo số lượng và tỉ lệ % học sinh hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành 
như sau :
 Tổng số Kết quả
 Lớp học sinh Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn 
 thành
 SL TL SL TL SL TL
Thực nghiệm 
 5 Trong các tiết học Toán, trò chơi toán học có thể tưởng tượng như một 
hoạt động dạy Toán. Cơ sở tâm lý và sinh lý khẳng định hoạt động dạy học Toán 
dưới dạng trò chơi là rất phù hợp với lứa tuổi học sinh Tiểu học. Và thực tế 
giảng dạy cũng cho thấy hình thức tổ chức trò chơi dễ được học sinh hưởng ứng 
và tích cực tham gia. Vì thế giáo viên thường dành ra năm phút đầu các tiết học 
( hoạt động khởi động) để tổ chức trò chơi nhằm kiểm tra kiến thức cũng như 
tạo hứng thú cho các em trước khi bước vào tìm hiểu kiến thức mới. Ngoài ra trò 
chơi toán học tôi cũng đưa vào cuối tiết học nhằm củng cố kiến thức và luyện 
tập kĩ năng cho học sinh. Khi được tham gia trò chơi, các em sẽ hứng thú và tích 
cực trong học tập, giờ học sẽ trở nên sinh động và đạt kết quả cao. 
 Khi tổ chức trò chơi giáo viên căn cứ vào nội dung kiến thức bài dạy, 
trình độ học sinh của lớp và điều kiện hiện có. Trò chơi được thể hiện như một 
hình thức thi đua, giúp các em đoàn kết hơn, mạnh dạn và tự tin hơn. Từ đó 
không khí lớp học trở nên sôi nổi, kích thích học sinh tính nhẩm nhanh và chính 
xác để trả lời bạn.
 Ví dụ: Khi dạy bài: “Nhân với số có ba chữ số” giáo viên có bài tập nhận 
diện như sau: Đúng viết Đ sai viết S vào ô trống. Với dạng bài tập như vậy, tôi 
tổ chức cho các em thi: “Ai nhanh ai đúng”
 456 456 456
 x x x
 x 203 x 203 x 203
 x
 1368 x 1368 x 1368
 912 912 912
 2280 10488 92568
 Mục đích của trò chơi này là giúp học sinh củng cố và nắm vững cách 
nhân với số có ba chữ số, trong đó tích riêng thứ hai gồm toàn chữ số 0. Khi 
nhân ta không viết tích riêng này mà viết gọn lại như cách nhân ở phép tính thứ 
ba. Trong trường hợp này điều quan trọng nhất học sinh phải biết là khi đã 
không viết tích riêng thứ hai thì viết tích riêng thứ ba ( 912) lùi sang bên trái hai 
cột so với tích riêng thứ nhất. Kết thúc trò chơi, giáo viên cho các em tự nhận 
xét, đánh giá lẫn nhau sau đó giáo viên khen ngợi, động viên kịp thời các em. 
Không chê và phân tích tỉ mỉ những chỗ sai, chỗ yếu của từng em để các em biết 
cách khắc phục và tự tin hơn trong học tập. 
 7 Vì vậy khi dạy phép cộng, biện pháp đầu tiên là giúp học sinh nắm vững 
kiến thức về số tự nhiên, về hàng, về giá trị của các chữ số từ đó giúp các em 
nắm vững cách đặt phép tính đúng, thẳng hàng. Tôi luôn lưu ý học sinh khi cộng 
phải cộng từ phải sang trái cộng từ hàng đơn vị rồi mới đến các hàng tiếp theo. 
Đối với những học sinh hay quên nhớ giáo viên đã lưu ý các em mỗi lần cộng có 
nhớ các em cần đánh số lần nhớ hoặc dùng dấu chấm để đánh dấu vào bên trái 
số mình đang cộng. Biện pháp này giúp các em khi cộng sẽ không quên nhớ vào 
hàng liền kề. Những học sinh chưa thuộc bảng cộng sau khi làm bài xong yêu 
cầu các em thử lại để xem kết quả thực hiện của mình đã đúng chưa, từ đó giúp 
các em thấy được chỗ mình sai và tác hại của việc không thuộc bảng cộng. Qua 
đó, chính các em này tự giác học thuộc bảng cộng để khi lên làm bài không bị 
sai. Những em đặt tính chưa đúng yêu cầu học sinh nhận xét cách đặt tính của 
bạn, chỉ ra chỗ được, chỗ chưa được của bạn để sửa. Từ những việc làm đó tôi 
thấy học sinh làm bài ít nhầm lẫn hơn và các em cũng tự tin làm bài hơn.
 *Đối với phép trừ:
 Việc dạy phép tính trừ là ngược lại của phép tính cộng. Để làm đúng kết 
quả đầu tiên học sinh cũng phải học thuộc bảng trừ, cách đặt tính, cách thực hiện 
tính. Kĩ năng thực hiện phép trừ cũng giống như thực hiện phép cộng, vì vậy khi 
dạy ở những dạng bài này giáo viên cũng hướng dẫn tương tự như khi dạy các 
bài về phép tính cộng. Thường xuyên kiểm tra bảng trừ của học sinh. Ví dụ 
trong tiết dạy giáo viên có thể bất chợt hỏi một vài học sinh trong lớp về kết quả 
của một số phép tính trừ, chẳng hạn như: 12 - 7 = ?; 15 - 9 = ? ; 13 - 8 = ? . 
hoặc tổ chức các trò chơi để ôn lại bảng trừ và cách thực hiện.
 *Đối với phép nhân:
 Dạy phép nhân ở lớp 4 là bước kế tiếp của dạy phép nhân ở lớp 3. Ở lớp 
3, các em đã được làm quen với việc nhân số có hai, ba, bốn chữ số với số có 
một chữ số nên về kĩ thuật nhân đa số các em đã nắm được. Tức là các em đã 
biết nhân theo thứ tự từ phải sang trái. Sang lớp 4 các em không chỉ thực hiện 
nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số mà các em còn phải thực hiện 
nhân số có nhiều chữ số với số có hai, ba chữ số. Chính vì nhân với số có hai, ba 
chữ số nên khi thực hiện nhân các em còn mắc nhiều lỗi như: Đặt các tích riêng 
thẳng hàng với nhau như khi thực hiện phép cộng, cũng có những học sinh khi 
 9 Để kích thích các em làm đúng nhanh các bài tập, vào các tiết thực hành 
toán tôi thường cho học sinh làm các phép tính vào bảng con, các em tự kiểm tra 
kết quả cho nhau, giáo viên quan sát và giúp đỡ cho những em còn lúng túng, 
khen ngợi những em tính nhanh và đúng.Với việc làm này tôi thấy học sinh 
thường rất thích và hiệu quả thường cao, hầu hết học sinh trong lớp đều thực 
hiện tốt các bài tập theo yêu cầu của giáo viên.
 *Đối với phép chia: 
 - Học sinh phải nắm thật chắc cách cộng, trừ, nhân các số có nhiều chữ 
 số.
 - Học sinh có khả năng cộng, trừ, nhân nhẩm và biết ước lượng thương.
 - Đặc biệt, các em còn hạn chế nhiều về kĩ năng tính toán nhất là phép 
chia vì kĩ năng chia là tổng hợp kĩ năng tính toán (trong phép chia có cả cộng, 
trừ, nhân, chia).
 Để rèn luyện thành thạo các kĩ năng cho học sinh, tôi luôn hướng dẫn và 
yêu cầu học sinh nắm vững: Mối quan hệ giữa các phép tính giữa các phép tính 
cộng và trừ, giữa phép nhân và phép chia. 
 Để cho học sinh dễ tính toán và làm bài nhanh, cần cung cấp cho học sinh 
thủ thuật che bớt hoặc làm tròn để các em ước lượng được nhanh hơn. Đối với 
những học sinh chưa biết cách ước lượng thương nhanh thì giáo viên phải hướng 
dẫn một cách tỉ mỉ. Để làm việc này, thông thường ta cho học sinh nắm được 
cách bắt chữ số chia ở lần chia đầu tiên và cách ước lượng thương là lấy số chục 
của số bị chia chia cho số chục của số chia sau đó nhân lên và trừ để tìm số dư. 
Một cách nữa là ta có thể cho học sinh làm tròn số bị chia và số chia để dự đoán 
thương, sau đó nhân lại và thử. Nếu tích vượt quá số bị chia thì phải rút bớt chữ 
số đã dự đoán ở thương, còn kém số bị chia quá nhiều thì phải tăng chữ số ấy. 
Cụ thể cách làm như sau:
 Ví dụ 1: Khi dạy cho học sinh phép chia 672: 21
 Ở lần chia thứ nhất bắt 67 : 21 ( nhẩm 6 chia 2 bằng 3 để chọn thương là 
6 ) vậy 3 x 21 = 63, 67- 63 = 4) như vậy thương bằng 3 là thích hợp.
 Ở lần chia thứ hai, ta hạ 2 là được 42; 42 chia 21 ( 4 chia 2 bằng 2, 2 nhân 
21 bằng 42, 42 trừ 42 bằng 0) vậy thương bằng 2 là hợp lí.
 Ta cũng có thể hướng dẫn học sinh cách ước lượng thương bằng cách:
 11

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_t.docx