Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp hướng dẫn học sinh Lớp 4 ước lượng thương trong phép chia cho số có hai, ba chữ số
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp hướng dẫn học sinh Lớp 4 ước lượng thương trong phép chia cho số có hai, ba chữ số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp hướng dẫn học sinh Lớp 4 ước lượng thương trong phép chia cho số có hai, ba chữ số
MỤC LỤC Trang Phần thứ nhất: PHẦN MỞ ĐẦU 2 I. Đặt vấn đề 2 II. Mục đích nghiên cứu 3 Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3 I. Cơ sở lí luận 3 II. Thực trạng 4 III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 6 IV. Tính mới của giải pháp 14 V. Hiệu quả của sáng kiến 14 Phần thứ ba: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 15 I. Kết luận 15 II. Kiến nghị 17 1 Người thực hiện: Lương Thị Thanh Hương – Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai thành thạo nhất. Đó chính là điều mà tôi thường trăn trở, suy nghĩ. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 ước lượng thương trong phép chia cho số có hai, ba chữ số”. Qua đề tài này, tôi muốn vừa giảng dạy vừa lường trước mọi sai sót của học sinh, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sai sót và có biện pháp giúp học sinh nhận ra sai sót của mình, của bạn. Từ đó các em tự điều chỉnh lại cho đúng và nâng cao kĩ năng tính toán của bản thân. Các em sẽ không còn sợ phép tính chia nữa và yêu thích môn toán hơn, học toán tốt hơn. Trong điều kiện và năng lực có hạn, đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu và áp dụng Biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 4A cách ước lượng thương trong phép chia cho số có hai, ba chữ số ở trường TH Nguyễn Thị Minh Khai góp phần nâng cao chất lượng học tập ở các môn học. Tôi bắt đầu nghiên cứu và thực hiện từ năm học 2017 – 2018 đến nay. II. Mục đích nghiên cứu Giúp giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung phép chia. Trang bị cho các em những kiến thức cơ sở ban đầu về kĩ năng chia. Hình thành và rèn luyện kĩ năng thực hành tính như: nắm được kĩ năng đặt tính, biết làm các bước tính, ứng dụng thiết thực được trong đời sống. Từ đó giúp học sinh lớp 4A rèn kĩ năng chia cho số có hai, ba chữ số. Giáo dục học sinh ý thức, thái độ học tập đúng đắn. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán là một môn học khó khăn và mang nặng tính tư duy, trừu tượng. Việc dạy môn Toán ở Tiểu học nhằm giúp cho học sinh biết vận dụng những kiến thức về Toán, được rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu cần được thể hiện một cách phong phú. Nhờ vào việc học Toán mà học sinh có điều kiện phát triển năng lực tư duy, tính tích cực, 3 Người thực hiện: Lương Thị Thanh Hương – Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Cuối 4B 27 4 14.9% 10 37.0% 13 48.1% kì 2 Cuối 1 4C 26 8 30.8% 38.5% 8 30.8% 2017- kì 1 0 2018 Cuối 4C 26 4 15.4% 10 38.5% 12 46.1% kì 2 Điểm mấu chốt của vấn đề học sinh thực hiện chia cho số có nhiều chữ còn lúng túng là các em chưa nắm được cách ước lượng thương, chưa có kĩ năng ước lượng thương. Bên cạnh đó, các em cũng chưa biết được cách làm tròn số thông qua một số thủ thuật thường dùng chẳng hạn như che bớt chữ số. Đối với giáo viên, việc hướng dẫn học sinh tìm cách ước lượng thương đôi khi không được chú ý một cách tỉ mỉ, chưa mạnh dạn đưa một số kinh nghiệm của mình vào dạy học Toán, chưa thực sự chú ý linh hoạt sáng tạo trong sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học. Quả vậy, để học sinh thực hiện phép tính này một cách dễ dàng và có những bài giải toán nhanh thì việc hướng dẫn cho học sinh cách “ước lượng thương” và rèn cho học sinh kĩ năng “ước lượng thương” trong phép chia và đặc biệt là phép chia cho số có nhiều chữ số đối với học sinh là rất cần thiết và vô cùng quan trọng. Để làm được điều này thì giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, tìm tòi phương pháp thích hợp trong dạy toán và cần nhiều thời gian, kết hợp với sự kiên trì, tính cần mẫn dịu dàng hướng dẫn, biết khích lệ đúng lúc và khơi dậy lòng say mê chăm chỉ miệt mài của học sinh trong học toán ở lớp cũng như luyện tập toán ở nhà, chứ không dễ dàng gì đạt được kết quả mong muốn trong một sớm một chiều. Bởi vậy, cho nên khi tiến hành công việc, bản thân tôi 5 Người thực hiện: Lương Thị Thanh Hương – Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai + Giáo viên chưa tìm các giải pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh (chưa cá thể hóa). III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Việc hướng dẫn rèn luyện kĩ năng ước lượng thương cho học sinh là cả một quá trình. Ở lớp 2, lớp 3, học sinh đã học bảng nhân, chia và thực hiện phép chia cho số có một chữ số. Sang lớp 4, học sinh học phép chia cho số có nhiều chữ số. Để ước lượng thương tốt, học sinh phải thuộc bảng nhân, chia. Biết cách nhân nhẩm, trừ nhẩm nhanh. Biết lấy mấy số để chia, biết cách che bớt số, biết cách làm tròn số. Để giúp học sinh thực hiện phép chia cho số có nhiều chữ số có một số biện pháp sau: 1. Biện pháp 1. Kiểm tra phân loại học sinh: - Bao nhiêu em đã thực hiện tốt phép chia cho số có nhiều chữ số. - Bao nhiêu em đã có kĩ năng “ước lượng thương” trong phép chia này và ứng dụng tốt vào giải toán có liên quan. - Bao nhiêu em chưa thực hiện phép chia được. Vì sao? - Bao nhiêu em thực hiện phép chia còn chậm, Nguyên nhân? 2. Biện pháp 2: Kiểm tra bảng nhân, bảng chia Đối với những học sinh không thực hiện được phép chia từ nguyên nhân không thuộc bảng nhân, bảng chia thì giáo viên phải kiểm tra. Việc học sinh thuộc được bảng nhân, bảng chia xem như giáo viên đã thành công một bước trong quá trình hướng dẫn học sinh thực hiện phép chia. Vì vậy, trong mỗi tiết học toán giáo viên phải thường xuyên kiểm tra bảng nhân, bảng chia. Ngoài ra, vào đầu giờ học giáo viên dành 15 phút để các em tự kiểm tra lẫn nhau, tạo điều kiện để các em học thuộc bảng nhân, bảng chia. Để các em ứng xử nhanh, giáo viên tổ chức cho các em chơi trò chơi “xì điện” trả lời nhanh, đúng kết quả để các em có kĩ năng nhớ lâu, nhẩm nhanh khi thực hiện tính. 7 Người thực hiện: Lương Thị Thanh Hương – Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai + Lấy 19: 16 được 1, nên ta ước lượng thương 19: 16 là 1. + Nhân 1 × 162 = 162<194; lấy 194 – 162 = 32, vậy 194: 162 =1 dư 32 - Lần 2: Hạ 4 được 324, lấy 324: 162 = 2. + Nhân 2× 162= 324, lấy 324 - 324=0; Vậy 1944:162 = 12. Vậy khi chia cho số có ba chữ số, ở mỗi lần chia, ta che đi hai chữ ở tận cùng của số bị chia và số chia, rồi ước lượng thương giống như chia cho số có một, hai chữ số. 3.3. Chia cho số có hai, ba chữ số bằng cách làm tròn Đối với những học sinh chưa biết cách ước lượng thương nhanh thì giáo viên phải hướng dẫn một cách tỉ mỉ. Việc rèn kĩ năng ước lượng thương là cả một quá trình. Thực tế của vấn đề này là tìm cách nhẩm nhanh thương của phép chia. Để làm được việc này, ta thường cho học sinh làm tròn số bị chia và số chia để dự đoán chữ số ấy. Sau đó nhân lại để thử. Nếu tích vượt quá số bị chia thì phải rút bớt chữ số đã dự đoán ở thương, nếu tích còn kém số bị chia quá nhiều thì phải tăng chữ số ấy lên. Như vây, muốn ước lượng cho tốt, học sinh không những thuộc bảng nhân, chia và biết nhân nhẩm, trừ nhẩm nhanh mà còn phải biết cách làm tròn số thông qua một số trường hợp sau: a. Trường hợp 1: Số chia tận cùng là 1, 2 hoặc 3 Ví dụ 1: Phép chia 96: 32 - Lấy 96: 32 + Che chữ số 6 ở số bị chia 96→ 9 + Che chữ số 2 ở số chia 32→3 + Lấy 9: 3 được 3, nên ta ước lượng thương 96: 32 là 3. + Nhân 3 × 32 = 96 và bằng số bị chia, lấy 96 – 96 = 0; vậy 96: 32 = 3. Ví dụ 2: Phép chia 5784: 723 - Lấy 5784: 723 + Che hai chữ số 84 ở số bị chia 5784→ 57 + Che hai chữ số 23 ở số chia 723→7 + Lấy 57: 7 được 8, nên ta ước lượng thương 5784: 723 là 8. 9 Người thực hiện: Lương Thị Thanh Hương – Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai + Nhân 293 × 3 = 879; lấy 896 – 879 =17; 896: 293 được 3. - Lần 2: Hạ 5 xuống được 175<293, ta viết 0 vào bên phải của thương và vẫn còn dư 175. * Lưu ý nhắc học sinh nếu khi ta hạ chữ số xuống mà nhỏ hơn số chia thì ta phải viết 0 vào bên phải của thương rồi tiếp tục hạ chữ số tiếp theo rồi chia. - Lần 3: Hạ 8 xuống được 1758. + Che 2 chữ số tận cùng của số 1758, vì 5 gần 10 nên tăng thêm 1 đơn vị 17→18 + Che 2 chữ số tận cùng của số 293, vì 9 gần 10 nên tăng thêm 1 đơn vị 2→3 + Lấy 18: 3= 6, nên ta ước lượng 1758: 293 = 6 + Nhân 6 × 293 = 1758; lấy 1758 - 1758 = 0; Vậy 89658: 293= 306 + Trong trường họp nếu phép chia có dư cũng làm tương tự. Vậy trong phép chia có chữ số tận cùng là 9, 8, 7 thì ta làm tròn tăng (tăng thêm 1 vào số bị chia và số chia). Khi thực hành ta chỉ việc che bớt các chữ số tận cùng của số bị chia và số chia. Tăng thêm 1 vào số bị chia và số chia (nếu che 2 chữ số tận cùng ở số chia thì phải che 2 chữ số tận cùng của số bị chia). c. Trường hợp 3: Số chia tận cùng là 4, 5, 6 Ví dụ 1: 245: 46 - Làm tròn giảm + Che chữ số 5 tận cùng của số chia 245 còn lại số chia là 24. (làm tròn giảm) + Che chữ số 6 tận cùng của số bị chia 46 còn lại số chia là 4. + Lấy 24: 4 được 6, nên ta ước lượng thương 245: 46 là 6. + Nhân 6 × 46 = 276; 245 < 276 (không phù hợp) - Ta có thể làm tròn tăng + Che chữ số 5 tận cùng của số chia 245 vì 5 gần 10 làm tròn tăng 24→ 25. + Che chữ số 6 tận cùng của số bị chia 46 vì 6 gần 10 làm tròn tăng 4→ 5. 11 Người thực hiện: Lương Thị Thanh Hương – Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai - Các trường hợp khác, giáo viên hướng dẫn học sinh chỉ cần làm tròn tăng hoặc giảm ở số chia và giữ nguyên số bị chia thì thương vẫn không thay đổi là mấy (che bớt số) như ví dụ trên. Trong thực tế giảng dạy, trong một lớp có nhiều đối tượng học sinh. Nhiều em ước lượng thương rất nhanh nhưng cũng có một số em ước lượng rất chậm. Đối với các em còn chậm thì giáo viên có thể cho các em làm tính vào nháp hoặc viết bằng bút chì, nếu sai thì tẩy đi rồi điều chỉnh lại. Biện pháp 4: Ước lượng thương bằng cách thử Ngoài các cách ước lượng thương như trên đối với những học sinh còn quá chậm, không có khả năng ước lượng thì giáo viên hướng dẫn học sinh ước lượng bằng cách lấy số chia nhân với các số 1,2,3,4,5,6,7,8,9 để tìm thương. Ví dụ: 24: 12. Các thao tác thường dùng là: + Viết phép tính nhân tương ứng: 2 × 12 = 24 + Tìm số điền vào ô trống bằng phép thử. 1 × 12 = 12 không đúng với đầu bài 2 × 12 = 2. Đúng với đầu bài. Do đó: 2 :12 = 2 Ví dụ 2: 5781: 47 + Ở lượt chia đầu tiên muốn ước lượng 57: 47 ta làm như sau: 1 × 47 = 47 (chọn) 2 ×47 = 94 (loại) Như vậy 57: 47 được 1 lần 57 – 47 = 10; hạ 8 xuống ta có lượt chia thứ hai: 108: 47 ta tiếp tục thử như lượt chia thứ nhất. 1 × 47 = 47 (loại) 2 × 47 = 94 (chọn) 3 × 47 = 141(loại) Vậy 108: 47 được 2 lần còn thừa 14 hạ 1 xuống ta có 141: 47 Ở lượt chia thứ ba ta tiếp tục thử: 1 ×47 = 47 (loại) 2 ×47 = 94 (loại) 13 Người thực hiện: Lương Thị Thanh Hương – Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_huong_dan_hoc_sinh_lop_4_uoc.doc