Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm khi hướng dẫn học sinh Lớp 4 tự học

doc 15 trang lop4 12/02/2024 1820
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm khi hướng dẫn học sinh Lớp 4 tự học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm khi hướng dẫn học sinh Lớp 4 tự học

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm khi hướng dẫn học sinh Lớp 4 tự học
 Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2010 - 2011
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
 “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia 
đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ 
Tổ quốc. Gia đình và Xã hội dành cho trẻ những điều kiện sống tốt nhất cho sự 
phát triển về thể chất, tinh thần, trí tuệ, tình cảm và đạo đức của trẻ. Vâng, trẻ 
em ngày nay đã được tiến lên một vị trí mới trong xã hội, các em được hưởng 
những điều kiện ưu tiên để sống và phát triển nên người. 
 Chúng ta thấy rằng, thai nhi trong bụng mẹ tự phát triển thành em bé. Bé tự 
cất tiếng khóc chào đời, tập bú, tập ăn, tập lẫy, tập bò, ê a tập nói Bé tự học, 
tự phát triển trong vòng tay thương yêu của cha mẹ. Lớn hơn một chút, bé tự 
học, tự rèn nào là múa, vẽ, hát ca, làm tóan, làm văn..dưới sự hướng dẫn của 
cô thầy. Như vậy, tự học, tự rèn, tự phát triển là điều kiện cốt lõi giúp phát triển 
bản thân trẻ.
 Đuyết- khem (Durkheim) có một câu nói rất hay: “Giáo dục là việc xã hội 
hóa cá nhân vị thành niên một cách hệ thống”. Như vậy, muốn hình thành và 
phát triển nhân cách theo mục tiêu đào tạo đã định, phải làm cho học sinh liên 
tục tự học, học và hành (tất nhiên phải phù hợp với tâm sinh lí học sinh) , xem 
đó là hạnh phúc trong học tập hàng ngày của bản thân. Phương pháp giáo dục 
tích cực lấy học sinh làm trung tâm coi trọng quá trình tự học, tự đào tạo, rèn 
luyện của người học, cho học sinh nhận thức sâu sắc rằng không phải học để 
chuẩn bị sống mà học trong khi sống và sống trong khi đang học.
 Hiện nay, đổi mới phương pháp giáo dục được thực hiện sâu rộng trong 
trường học nhằm phát huy tinh sáng tạo, chủ động của học sinh, giúp học sinh 
phát huy tính tự học của bản thân. Phát huy nội lực tự học của học sinh vừa là 
mục tiêu, vừa là phương pháp giáo dục, vừa là con đường nâng cao chất lượng 
và hiệu quả của nhà trường.
 Với lý do trên mà tôi đã chọn cho mình đề tài “Một vài kinh nghiệm khi 
hướng dẫn học sinh lớp 4 tự học”để nghiên cứu qua thực tiễn dạy và học của 
thầy trò lớp 4/2, trường tiểu học Định Hiệp
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Thức Trang 1 Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2010 - 2011
 a) Học bài cũ: Tôi thường chỉ rõ cho Học sinh kiến thức cơ bản thông qua 
các hoạt động giảng dạy: thảo luận nhóm rút ra nội dung cần nhớ, trao đổi ý kiến 
với mọi người về một vấn đề đang thắc mắc để các em dễ dàng ghi nhớ có suy 
nghĩ, tránh học vẹt, học mà chẳng hiểu gì.
 Ví dụ: Khi dạy các em môn Luyện từ và câu đến bài “ Câu kể Ai là gì?”, tôi 
cho học sinh thảo luận nhóm so sánh đối chiếu cách tìm bộ phận chính của 3 
kiểu câu kể: Ai làm gì?; Ai thế nào? và Ai là gì? ( hai kiểu câu Ai làm gì?; Ai 
thế nào? học sinh đã học trước). Khi so sánh như vậy học sinh nắm bài chắc 
hơn, học sinh hiểu rằng trong cả 3 mẫu câu này, chủ ngữ đều trả lời cho câu hỏi: 
Ai? Cái gì? Con gì? Chỉ có cách đặt câu hỏi tìm vị ngữ là khác nhau mà thôi!
 a) Làm bài tập có sự gợi ý hướng dẫn những điểm khó
 Ví dụ: Khi học sinh học tập làm văn bài “ luyện tập miêu tả các bộ phận 
của cây cối” , tôi yêu cầu học sinh dành 5 phút giờ chơi để quan sát kĩ rễ cây 
bàng được trồng trong sân trường trước khi về nhà viết 1 đoạn. Tôi không quên 
hướng dẫn các em sử dụng càng nhiều giác quan để quan sát càng tốt: dùng mắt 
quan sát độ lớn, hình dáng, màu sắcdùng tay để sờ vào phần rễ nổi lên trên 
mặt đất. Tư duy liên tưởng xem bộ rễ cây bàng giống với gì, có thể so sánh, 
nhân hóa với gì. Với phần hướng dẫn như vậy thì đa số các em chịu khó quan 
sát và thực hiện bài viết tương đối tốt.
 b) Chuẩn bị bài mới:
 Đây là điều kiện rất quan trọng giúp các em tiếp thu tốt bài mới, các em 
dễ 
dàng hơn trong việc nắm bắt kiến thức, giờ học cũng sẽ nhẹ nhàng mà hiệu quả 
lại cao. Giáo viên cần hướng dẫn nội dung các câu hỏi gợi ý cho học sinh suy 
nghĩ. Và đây sẽ chính là những câu hỏi học sinh sẽ thảo luận trong khi học bài 
mới, giáo viên cung có thể cho học sinh chuẩn bị theo nhóm (nếu các em ở gần 
nhà nhau), nhưng khi học nhóm mỗi học sinh đều phải chuẩn bị cá nhân, cần 
phải độc lập suy nghĩ trước, không ỷ lại, dựa dẫm vào bạn.
 Ví dụ: Khi chuẩn bị dạy bài “Tóm tắt tin tức” (Tập làm văn- tuần 24- lớp 4), 
tôi yêu cầu học sinh chuẩn bị trước các câu hỏi:
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Thức Trang 3 Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2010 - 2011
 Ví dụ: Sau khi học Tóan về dấu hiệu chia hết, tôi yêu cầu học sinh tìm những 
điểm cần lưu ý, những chi tiết giúp em dễ nhớ về dấu hiệu chia hết cho 2,5,3 và 
9. Học sinh khá giỏi dễ dàng nhận biết đối với dấu hiệu chia hết cho 2,5 chỉ cần 
lưu ý chữ số tận cùng, còn đối với dấu hiệu chia hết cho 3 và 9 thì ta cần phải 
xét đến tổng các chữ số của số đó.
 4/ Chú ý cách đăt câu hỏi kích thích học sinh tư duy:
 Mặc dù đã có những câu hỏi trong sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng 
dạy của giáo viên nhưng giáo viên cũng cần phải suy nghĩ thêm những câu hỏi 
nhằm gợi suy nghĩ cho học sinh khi tự học (hoặc thay đổi hệ thống câu hỏi đã 
có sao cho phù hợp với trình độ học sinh, buộc học sinh phải suy nghĩ để trả 
lời). Các câu hỏi này gợi suy nghĩ thông minh cho học sinh, không phải các câu 
hỏi để nhớ kiến thức hoặc học thuộc lòng. Đặt câu hỏi cũng là một nghệ thuật 
đòi hỏi sự sáng tạo của giáo viên.
 Ví dụ: Khi dạy môn Đạo đức bài “Giữ gìn các công trình công cộng” (bài 
11 trang 34 SGK) , ở hoạt động 2, sau khi học sinh làm việc nhóm đôi bài tập 1, 
SGK. Trong khi đại diện từng nhóm trình bày, cả lớp trao đổi tranh luận về 
tranh 3 (vẽ hai học sinh đang khắc chữ trên thân cây), tôi đưa câu hỏi: “Đến 
thăm các di tích lịch sử, có người hay khắc tên mình lên thân cây cổ thụ, lên 
vách đá hoặc viết nhăng nhít lên tường. Làm như vậy có hại gì? Để ghi nhớ buổi 
tham quan di tích lịch sử, tốt nhất ta nên làm gì?” Câu hỏi trên đã giúp học sinh 
ý thức mình cần phải làm gì để giữ gìn các công trình công cộng. Sau tiết học, 
tôi không quên giúp học sinh ghi nhớ và thực hiện:
 Những di tích, những công trình
 Ông cha xây dựng, chúng mình giữ chung.
 5/ Hướng dẫn học sinh tự phát hiện , thắc mắc qua các bài học:
 Giáo viên cần tạo điều kiện, tập cho học sinh phát hiện thắc mắc qua các bài 
học , tự tìm tòi, tự giải đáp, chỗ nào cảm thấy chưa chắc chắn thì trao đổi ở 
nhóm hoặc hỏi lại thầy cô giáo. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, người trọng 
tài, người đạo diễn, “giáo viên không còn là ống dẫn thông tin mà là chất xúc tác 
của quá trình dẫn thông tin đó. Giáo viên luôn ở bên cạnh học sinh kích thích, 
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Thức Trang 5 Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2010 - 2011
 Như vậy từ sự định hướng khéo léo của giáo viên mà học sinh đi từ cái đơn 
giản là tìm những cặp số có tích là 24 đến việc phức tạp là giải một bài tóan. 
Hoặc khi giúp học sinh làm một bài tập làm văn giáo viên cũng phải đi từ gợi ý 
nho nhỏ này đến gợi ý nho nhỏ khác kết hợp hữu cơ thành bài có hệ thống mạch 
lạc.
 b) Định hướng học sinh quan sát:
 Quan sát là một công cụ nhận thức. Trong lịch sử khoa học thế giới, có 
những quan sát đơn giản đã tạo ra bước ngoặt cho tư duy loài người như việc 
quan sát quả táo rơi từ trên cây xuống đã giúp Newton tìm ra lực hút của trái 
đất! Nuôi dưỡng và phát huy thói quen quan sát, nhận xét, hỏi và so sánh chính 
là phát triển trí thông minh, phong cách học- hỏi của học sinh. Học chữ theo 
kiểu “O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội nón, Ơ già mang râu” chính là đã vận 
dụng năng lực quan sát và so sánh của học sinh. Khi giáo viên giúp học sinh làm 
tập làm văn tả đồ vật hay con vật, để học sinh có thể viết tốt, giáo viên giúp học 
sinh quan sát tỉ mỉ, so sánh, nhân hóatừ đó học sinh mới có những lời hay ý 
đẹp, học sinh tạo ra sự sáng tạo, độc đáo cho bài tập làm văn.
 Để giúp học sinh tăng cường khả năng quan sát, tôi yêu cầu học sinh so sánh 
ba tổng sau:
 27 + 36 + 53 + 75 + 80
 57 + 76 + 20 + 85 + 33
 87 + 35 + 26 + 53 + 70
 Nhiều học sinh lớp bốn khi gặp bài toán này là nhanh nhảu tính ngay để đi 
đến kết quả là cả ba tổng đều bằng nhau. Tôi gợi ý để các em so sánh các chữ số 
ở hàng đơn vị và các chữ số ở hàng chục của ba tổng. Sau khi được gợi ý, học 
sinh thấy ngay các chữ số hàng đơn vị ở ba tổng là như nhau, chỉ sắp xếp thứ tự 
khác nhau. Các chữ số hàng chục cũng vậy. Theo cách cộng các chữ số hàng 
đơn vị với nnhau, các chữ số hàng chục với nhau và nhờ tính chất giao hoán của 
phép cộng. Ta có thể kết luận ba tổng đó bằng nhau mà không cần mất thời gian 
tính toán từng tổng một! 
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Thức Trang 7 Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2010 - 2011
 Tuấn: Con biết rồi, sau chữ D và trước chữ E.
 Cha: Thế còn “Đô”?
 Tuấn: ( nhẩm một lúc) Đô sau Đo và trước Đơ.
 Tuấn lật các trang từ điển Tiếng Việt
 Tuấn: A! Con tìm thấy rồi! Đổ đúng là dấu hỏi như con viết rồi.
 Cha: Con xem lại đi. Đổ con tìm thấy nghĩa là gì?
 Tuấn ( đọc): Đổ là sụp xuống, vứt đi: nhà đổ, đổ rác.
 Cha: Thế “ăn xôi đỗ” là “ăn xôi vứt đi”, “ xôi sụp xuống” !
 Tuấn: Chết rồi! Con hấp tấp quá! Từ điển còn khối từ “đổ” mà con không để 
 ý: đổ bể, đổ tội, đổ xô. Có cả “đỗ” dấu ngã nữa.
 Cha: Thế con chọn từ nào? 
 Tuấn: ( lẩm bẩm) Đỗ: trúng tuyển trong một kì thi. Đỗ: đậu, cây đậu. Đúng 
 rồi! Đúng rồi! Đỗ dấu ngã mới cùng nghĩa với đậu. Xôi đỗ: xôi nấu với đỗ, 
 đỗ dấu ngã.
 Cha: Đúng rồi! Thế con mất mấy phút để tra từ điển?
 Tuấn: ( nhìn đồng hồ): Chỉ có năm phút thôi!
 Cha: Khi con tra quen rồi thì chỉ mất một vài phút thôi. Mất vài phút mà con 
 được gì nào?
 Tuấn: Sửa được chữ con viết sai.
 Cha: Đúng! Còn được cả cách tự học, cách làm việc độc lập với sách báo.
 d) Định hướng cho học sinh tự học theo phong cách: học mọi nơi, học 
 mọi lúc, học mọi người, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung:
 Học mọi nơi: Lê- nin đã từng nói: “Học, học, học nữa, học mãi”; học là học 
kiến thức, học cách suy nghĩ tìm ra kiến thức, học ở nhà, ở lớp, ở câu lạc bộ, ở 
thư viện, ở nơi nghỉ hè 
 Học mọi lúc: Nếu học sinh đã biết học “mọi nơi” thì các em cũng sẽ biết học 
mọi lúc, tận dụng lúc rảnh rỗi: học vào lúc đi du lịch, học trên đường đi chơi, 
học khi đang hóng mátBuổi sáng khi đi tập thể dục, các em có thể quan sát vị 
trí mọc của mặt trời ở chân trời phía Đông từ đó tập xác định các hướng Tây- 
Nam- Bắc, các em cũng có thể liên hệ đến sự chuyển động của mặt trời trong 
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Thức Trang 9 Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2010 - 2011
số học sinh không làm bài nhà, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Nay, khi 
được giao việc, các em chủ động, tích cực, hợp tác cùng nhau thực hiện tốt 
nhiệm vụ. Các em chịu khó tìm hiểu qua sách báo, thậm chí có vài em rất hứng 
thú với việc lên mạng tìm tài liệu đọc Hơn 90% học sinh luôn hoàn thành tốt 
bài giáo viên giao, các em có ý thức tốt trong việc chuẩn bị bài.
 Việc tự học của học sinh giúp kết quả học tập GKI khả quan rõ rệt. Cụ thể là, 
vào đầu năm học, kết quả khảo sát hai môn tiếng Việt và Toán của lớp 4/2 như 
sau:
 Giỏi Khá Trung bình Yếu
 Đầu năm Số Phần Số Phần Số Phần Số Phần 
 lượng trăm lượng trăm lượng trăm lượng trăm
 Tiếng Việt 8/7 28.6 10/2 35.7 8/5 28.6 2/1 7.2
 Toán 7/7 25 7/2 25 11/5 39.3 3/1 10.7
 Sau khi vận dụng việc giáo dục học sinh tự học, kết quả điểm thi GKI như 
sau: 
 Giỏi Khá Trung bình Yếu
 GKII Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng %
 Tiếng Việt 9/7 32.1 12/8 42.9 6 21.4 1 3.8
 Toán 9/7 32.1 9/5 32.1 8/3 28.6 2 7.2
 Khoa học 17/10 61.7 7/5 25 4 14.3 0 0
 Sử - Địa 15/10 53.8 5/4 17.9 7/1 25 1 3.6
 A+ % A %
 Đạo đức 12/9 42.3 16/6 57.1
 Kĩ thuật 14/10 50 14/5 50
 Mĩ thuật 3/2 10.7 25/3 61.7
 Nhạc 11/8 39.3 17/7 60.7
 Thể dục 2/1 7.2 26/14 92.9
 Những thành công bước đầu tuy chưa nhiều nhưng đó cũng chính là động lực 
giúp tôi tiếp tục áp dụng những kinh nghiệm này ở những năm học sau.
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Thức Trang 11 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_kinh_nghiem_khi_huong_dan_hoc.doc