SKKN Một số biện pháp dạy học phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh khi dạy Tập làm văn Lớp 4

docx 31 trang lop4 16/02/2024 3002
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp dạy học phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh khi dạy Tập làm văn Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp dạy học phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh khi dạy Tập làm văn Lớp 4

SKKN Một số biện pháp dạy học phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh khi dạy Tập làm văn Lớp 4
 Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp dạy học phát huy tích cực, chủ 
 động, sáng tạo cho học sinh khi dạy Tập làm văn lớp 4
 A. ĐẶT VẤN ĐỀ
 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Môn Tiếng Việt chương trình Tiểu học mới nhằm hình thành và phát triển ở 
học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (Nghe - nói - đọc - viết) để học tập và 
giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở để 
tiếp thu kiến thức ở các lớp trên.
 Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành từ các 
phân môn khác của môn Tiếng Việt. Đồng thời, nó còn gắn bó mật thiết với tất cả 
các môn học khác trong chương trình Tiểu học và thể hiện được đậm nét dấu ấn 
cá nhân. Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ 
năng sản sinh văn bản dưới cả hai hình thức nói, viết về một số nội dung nào đó 
hay một đề tài cụ thể. Điều này đòi hỏi giáo viên giảng dạy phải vận dụng các 
phương pháp và cách tổ chức dạy học linh hoạt như thế nào để mỗi tiết dạy Tập 
làm văn đều đạt được hiệu quả như mong muốn.
 Xuất phát từ thực tế trên, với trách nhiệm là người giáo viên trực tiếp giảng 
dạy ở Tiểu học, tôi đã suy nghĩ và tìm biện pháp khắc phục khá hiệu quả. Trong 
phạm vi bài viết này, tôi xin trình bày sáng kiến: “Một số biện pháp dạy học 
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khi học phân môn 
Tập làm văn lớp 4”.
 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Đổi mới phương thức dạy Tập làm văn nói riêng môn Tiếng Việt nói chung là 
đẩy nhiệm vụ chủ yếu của tiết học vể phía học sinh. Thể hiện cụ thể ở chỗ: giáo 
viên dẫn dắt học sinh tự tìm tòi, khám phá, nói và viết những điều các em quan 
sát, hiểu và cảm nhận được. Từ đó mà uốn nắn, định hướng cho các em phát huy 
những suy nghĩ độc đáo hợp lý. Chính vì lẽ đó mà bản thân đã nghiên cứu và thử 
nghiệm đổi mới phương pháp dạy Tập làm văn lớp 4 nhằm mục đích giúp cho các 
em hiểu nói - viết theo ý mình, cảm nhận được, phát huy tính tích cực trong học 
tập. Góp phần giúp các em viết văn ngày càng hay hơn.
 III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Các biện pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh 
khi học phân môn Tập làm văn lớp 4.
 IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
 Học sinh lớp 4A4 - Trường Tiểu học Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội. 1. Thuận lợi
 Nhà trường luôn luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác thay sách đạt kết 
quả tốt, chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn được nâng cao, xây dựng được 
nề nếp tự học, bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 3, các mô đun để thực hiện đổi 
mới phương pháp giảng dạy nâng cao tay nghề cho giáo viên. Ban giám hiệu quan 
tâm và tạo điều kiện cho giáo viên học tin học, tự làm đồ dùng dạy học để thực 
hiện có hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học.
 Giáo viên giảng dạy đều được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, 
sách tham khảo và các phương tiện phục vụ cho việc dạy học. Đội ngũ giáo viên 
dạy lớp 4 là những giáo viên có năng lực sư phạm, yêu nghề nên khi tiếp cận thay 
sách giáo viên đã áp dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, 
sáng tạo của học sinh tương đối linh hoạt và ngày một hiệu quả.
 Học sinh đã quen với cách học từ các lớp 1, 2, 3 cho nên các em biết cách thực 
hành luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức.
 2. Khó khăn
 Phân môn Tập làm văn là phân môn khó dạy so với các môn học khác, giáo 
viên dạy chưa linh hoạt trong vận dụng các phương pháp và chưa sáng tạo trong 
việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.Việc cung cấp vốn sống, vốn hiểu 
biết cho các em qua các phân môn của Tiếng Việt và các môn học khác chưa được 
chú trọng. Mặt khác, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học ham chơi, 
khả năng tập trung chú ý nhận thức các sự vật còn hạn chế, năng lực sử dụng ngôn 
ngữ chưa thật sự phát triển nên việc học tập ở phân môn Tập làm văn gặp những 
khó khăn như: thiếu vốn sống, vốn hiểu biết về đối tượng cần miêu tả, kể chuyện 
hoặc không biết cách diễn đạt về đối tượng cần kể, cần tả.
 III. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH, YÊU CẦU KIẾN THỨC, KỸ NĂNG 
PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 4
 1. Nội dung chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4
 Chương trình Tập làm văn lớp 4 được thiết kế tổng cộng 62 tiết/ năm. Cụ 
thể như sau:
 * Kể chuyện gồm có 19 tiết được dạy trong học kỳ I
 * Văn miêu tả gồm có 30 tiết được phân bố như sau:
 - Khái niệm văn miêu tả 1 tiết
 + Miêu tả đồ vật 10 tiết - Miêu tả con vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả con 
vật
 + Các loại văn bản khác
 - Viết thư: Nắm được mục đích của việc viết thư, nội dung cơ bản, cách 
xưng hô và cách trình bày một bức thư.
 - Trao đổi ý kiến với người thân: Xác định được mục đích trao đổi, vai trong 
trao đổi, lập được dàn ý của bài trao đổi và biết đóng vai trao đổi tự nhiên, tự tin, 
cử chỉ thích hợp, lời lẽ có sức thuyết phục để đạt mục đích đề ra.
 - Giới thiệu hoạt động địa phương: Biết cách giới thiệu tập quán, trò chơi, 
lễ hội, truyền thống của địa phương, quan sát và trình bày được những đổi mới 
của quê hương, có ý thức đối với việc xây dựng quê hương.
 - Điền vào giấy tờ in sẵn (phiếu khai báo tạm trú, tạm vắng, thư chuyển 
tiền, điện chuyển tiền): Biết điền nội dung cần thiết vào giấy tờ in sẵn. Qua đó 
học sinh biết ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày.
 2.2. Yêu cầu kỹ năng:
 2.2.1. Học xong chương trình Tập làm văn lớp 4, học sinh phải có được các 
kỹ năng làm văn:
 - Kỹ năng định hướng hoạt động trong giao tiếp:
 + Nhận diện loại văn bản
 + Phân tích đề
 - Kỹ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp:
 + Xác định dàn ý bài văn đã cho
 + Tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn kể chuyện
 + Quan sát đối tượng, tìm và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn kể chuyện
 + Quan sát đối tượng, tìm và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả
 - Kỹ năng hiện thực hóa hoạt động giao tiếp:
 + Xây dựng đoạn văn
 + Liên kết các đoạn văn thành bài văn + Chấm – chữa – nhận xét kết quả
d) Giáo viên dặn dò: 2-3 phút (cả ghi vở)
* Dạy bài thực hành
1. Kiểm tra bài cũ: 3-5 phút
2. Dạy bài mới:
a) Giới thiệu bài: 1-2 phút
b) Hướng dẫn thực hành: 28-30 phút
 - Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện từng bài tập trong sách giáo khoa 
theo thứ tự chung.
 - Từng bài tập hướng dẫn học sinh theo 4 bước:
 + Đọc và xác định yêu cầu bài tập
 + Hướng dẫn giải một phần bài tập mẫu
 + Học sinh làm bài tập
 + Chữa – chấm – nhận xét kết quả
c) Giáo viên dặn dò: 2-4 phút (cả ghi vở)
 V. MỘT SỐ BIỆN PHÁP VÀ CÁCH THỨC TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
 Trong quá trình dạy học phân môn Tập làm văn lớp 4, người giáo viên có nhiều 
cách thức, nhiều con đường và nhiều phương pháp để hình thành kiến thức, kỹ 
năng cho học sinh. Song theo kinh nghiệm và sự nghiên cứu của bản thân, tôi đưa 
ra những biện pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học 
sinh trong dạy Tập làm văn lớp 4 như sau:
 1. Biện pháp 1: Thực hành giao tiếp:
 - Biện pháp thực hành giao tiếp là biện pháp dạy học bằng cách sắp xếp tài 
liệu ngôn ngữ sao cho vừa bảo đảm tính chính xác, chặt chẽ trong hệ thống ngôn 
ngữ vừa phản ánh được đặc điểm, chức năng của chúng trong hoạt động giao tiếp.
 - Tận dụng vốn hiểu biết về ngôn ngữ nói của học sinh, để học sinh cảm 
thấy nhẹ nhàng hơn trong việc tiếp nhận kiến thức và rèn luyện kỹ năng học tập 
mới. Rèn cho học sinh tính tự tin khi đưa ra chính kiến của mình. Tóm lại: Biện pháp thực hành giao tiếp là biện pháp đặc trưng để dạy học 
phân môn Tập làm văn lớp 4 vì: Phân môn Tập làm văn lớp 4 chỉ có 5 bài văn viết 
hoàn chỉnh còn chủ yếu là văn nói và viết đoạn. Mặt khác, nhiệm vụ chủ yếu của 
phân môn Tập làm văn là rèn kỹ năng tập lập ngôn bản cho học sinh.
 2. Biện pháp 2: Phân tích ngôn ngữ:
 - Đây là biện pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự tổ chức và hướng dẫn 
của giáo viên tiến hành tìm hiểu các hiện tượng ngôn ngữ, quan sát và phân tích 
các hiện tượng đó theo định hướng của bài học, trên cơ sở đó rút ra những nội 
dung lý thuyết hoặc thực hành cần ghi nhớ.
 - Giúp học sinh tìm tòi, huy động vốn hiểu biết của mình về từ ngữ của 
Tiếng Việt và cách sử dụng Tiếng Việt trong những hoàn cảnh cụ thể, làm cho bài 
nói, bài viết của các em chân thực, giàu hình ảnh và sinh động hơn.
 - Giáo viên phải tạo điều kiện để học sinh tự phát hiện và sửa chữa lỗi diễn 
đạt. Hướng dẫn học sinh cách sử dụng Tiếng Việt khi nói (đúng ngữ điệu) và viết 
(đúng ngữ pháp) cho phù hợp với nội dung từng bài tập.
 Ví dụ: Học sinh làm bài tập 2 trong tiết Tập làm văn: Luyện tập xây dựng 
đoạn văn kể chuyện theo tranh. Ở bức tranh 5 một học sinh làm như sau:
 Lần thứ ba, cụ già vớt lên lưỡi rìu bằng sắt và hỏi:“Lưỡi rìu này có phải 
của con không?” Chàng trai nói: “Đây mới chính là lưỡi rìu của cháu”.
 Học sinh nhận xét như sau:
 + Bạn dùng cụm từ “chàng trai nói” là chưa hay vì: Khi cụ già tìm được 
lưỡi rìu thì chàng trai phải hết sức mừng rỡ và phải reo lên. Theo em nên thêm 
thay từ “nói” bằng cụm từ “mừng rỡ reo lên”
 + Cách xưng hô của chàng trai “ cháu” mà bạn sử dụng là chưa hợp lý, vì 
cụ già gọi chàng trai là “con”. Đoạn văn nên sửa như sau:
 Lần thứ ba, cụ già vớt lên lưỡi rìu bằng sắt và hỏi: “Lưỡi rìu này có phải 
của con không?” Chàng trai vui mừng reo lên: “Đây mới chính là lưỡi rìu của 
con”.
 * Tóm lại: Biện pháp phân tích ngôn ngữ cũng là một trong những biện 
pháp quan trọng cho việc dạy Tập làm văn, bởi dạy Tập làm văn là dạy cho học 
sinh cách dùng từ, cách đặt câu, cách dựng đoạn một cách chân thực, hấp dẫn và 
phải phù hợp với nội dung và hoàn cảnh giao tiếp. Do đó giáo viên phải giúp học 
sinh nhận xét, điều chỉnh để làm bài đạt kết quả cao.
 3. Biện pháp 3: Gợi mở vấn đáp 4. Biện pháp 4: Nêu và giải quyết vấn đề.
- Biện pháp nêu và giải quyết vấn đề là giáo viên đưa ra tình huống gợi vấn đề, 
điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực chủ động, sáng 
tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn luyện kỹ năng 
để đạt được mục đích học tập.
- Tăng thêm sự hiểu biết, khả năng áp dụng lý thuyết vào giải quyết vấn đề của 
thực tiễn. Nâng cao kỹ năng phân tích, khái quát từ tình huống cụ thể và khả năng 
độc lập cũng như khả năng hợp tác trong giải quyết vấn đề.
- Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị trước vấn đề phù hợp với 
nội dung bài và đảm bảo tính sư phạm, cần phải chuẩn bị tốt kiến thức lý luận 
cũng như thực tiễn để giải quyết vấn đề học sinh đưa ra.
Ví dụ: Tiết tập làm văn “ Nhân vật trong truyện ”
Bài tập 2: (Phần luyện tập) như sau:
Cho tình huống sau: Một bạn nhỏ mải vui đùa, chạy nhảy, lỡ làm ngã một em bé. 
Em bé khóc.
Em hãy hình dung sự việc và kể tiếp câu chuyện theo một trong hai hướng sau 
đây:
 a. Bạn nhỏ nói trên biết quan tâm đến người khác.
 b. Bạn nhỏ nói trên không biết quan tâm đến người khác.
Học sinh làm bài như sau:
+ Giờ ra chơi, Giang rủ tôi ra sân nhảy dây, các em học lớp 1 quây quanh xem rất 
đông. Đang chơi vui vẻ thì tôi nghe thấy tiếng khóc của một bé gái. Thì ra không 
may Giang đã quật dây vào làm em bé ngã. Giang vội vã chạy tới xin lỗi em và 
dìu em ngồi lên ghế đá, dỗ em bé nín.
+ Giờ ra chơi, Tài và Đức cùng chơi trò đuổi bắt. Mải chơi nên khi chạy Tài đã 
va phải một em bé, làm em ngã. Tài không đỡ em dậy mà nói: “Tại em va phải 
anh chứ” nói rồi Tài chạy tiếp.
Khi dạy học nêu vấn đề, giáo viên cần giúp học sinh hiểu được trong cùng một 
tình huống nhưng có nhiều cách giải quyết khác nhau, các em cần lựa chọn cách 
giải quyết hay nhất để ứng dụng trong học tập, trong cuộc cuộc sống.
 5. Biện pháp 5: Sử dụng linh hoạt trực quan.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_day_hoc_phat_huy_tich_cuc_chu_dong_san.docx