Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao hứng thú cho học sinh Lớp 4 trong dạy học phân môn Tập làm văn
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao hứng thú cho học sinh Lớp 4 trong dạy học phân môn Tập làm văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao hứng thú cho học sinh Lớp 4 trong dạy học phân môn Tập làm văn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc HỒ SƠ XÉT CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN - Tên sáng kiến: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hứng thú cho học sinh lớp 4 trong dạy học phân môn Tập làm văn.” - Tác giả: Nguyễn Thị Hải - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phú Xuân – Bình Xuyên – Vĩnh Phúc. - Chức vụ: Giáo viên - Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm Phú Xuân, tháng 01 /2020 1 Trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn có vị trí rất quan trọng vì nó tận dụng tất cả các hiểu biết và kĩ năng trong môn Tiếng Việt. Học sinh vận dụng các kiến thức Tiếng Việt khi làm bài văn, trong quá trình vận dụng này, các kiến thức đó hoàn thiện và dần được nâng cao. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh kĩ năng sản sinh văn bản. Nhờ vậy, Tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Như chúng ta biết thì hứng thú là một hiện tượng tâm lí khá phức tạp. Song đó cũng là một lĩnh vực lí thú, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Những nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau cho thấy thuật ngữ “ hứng thú ” được sử dụng khá rộng rãi, thậm chí có nhiều quan niệm, nhiều cách giải thích khác nhau về hứng thú. Mỗi quan niệm “ hứng thú ” lại theo các góc độ khác nhau. Quan niệm của các nhà tâm lí học và giáo dục học cũng rất khác nhau. Một số coi hứng thú như thuộc tính bẩm sinh của con người, một số khác lại chú trọng đến nguồn gốc sinh vật của hứng thú, tiêu biểu là S.Klaparet, năm 1946, trong công trình Tâm lí học trẻ em và giáo dục học thực nghiệm thì cho rằng: “Hứng thú là dấu hiệu của nhu cầu, bản năng, khát vọng đòi hỏi được thỏa mãn ” hoặc có một số lại đồng nhất hứng thú với bản năng. Hứng thú học tập chính là thái độ lựa chọn đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong quá trình nhận thức và trong đời sống của cá nhân. Hứng thú tạo ra sự say mê học tập, giúp học sinh có thể vượt qua mọi khó khăn để nắm bắt tri thức một cách nhanh nhất. Hứng thú học tập phân môn Tập làm văn chính là thái độ lựa chọn đặc biệt của học sinh đối với việc lĩnh hội và vận dụng những tri thức Tiếng Việt trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống, do sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn đối với bản thân các em trong cuộc sống. Qua thực tế dạy học nhiều năm ở trường tiểu học, tôi nhận thấy hứng thú của học sinh trong việc học tập phân môn Tập làm văn còn chưa cao, gặp nhiều hạn chế so với các môn học khác. Mặc dù học sinh có nhiều điều kiện tốt để học tập như chương trình giáo dục phù hợp, trình độ nhận thức tương đối đồng đều, sự quan tâm của gia đình, thầy cô và bạn bè,Thực tế tôi thấy một số em có khả năng nắm bắt và hứng thú học rất tích cực thông qua việc các em làm bài rất tốt chỉ sau khi nghe giáo viên hướng dẫn lập dàn ý và đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Song bên cạnh đó, có những học sinh chưa có hứng thú trong việc tiếp cận tri thức mới, các em còn thụ động nên bài làm còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân tình trạng này xuất phát từ điều kiện chủ quan và khách quan. Nguyên nhân chủ quan là do các em còn chưa tích cực tìm hiểu bài, chóng chán và giảm chú ý, chậm tiếp thu kiến thức Nguyên nhân khách quan là do phương pháp dạy học của giáo viên còn mang tính chất truyền thống, việc áp dụng công nghệ thông tin, đồ dùng trực 3 Môn Tổng Số hs Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 – 6 Điểm < 5 số dự học kiểm SL % SL % SL % SL % sinh tra TV 31 31 18 58,1 7 22,6 6 19,3 0 0 Qua kết quả điều tra trên, tôi thấy được việc học sinh hứng thú với phân môn Tập làm văn nhìn chung là rất thấp và thấp hơn so với các môn học còn lại. Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng phải là người truyền cảm hứng cho các em, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau đây, hy vọng sẽ nâng cao hứng thú cho học sinh lớp 4 trong dạy học phân môn Tập làm văn. Giải pháp 1: Tạo hứng thú bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Trong thời kì hội nhập và phát triển thì cách mạng công nghiệp 4.0 ra đời và phát triển ở đỉnh cao. Chắc hẳn cụm từ “4.0” này không còn xa lạ đối với bất kì ai. Cũng như guồng quay của cuộc sống, người giáo viên phải luôn tự “làm mới mình” cũng như “làm mới” các hình thức dạy học linh hoạt. Ngoài việc tích cực tiếp thu sự đổi mới về phương pháp dạy học, thì tôi thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học cũng làm tăng tính hấp dẫn cho bài dạy, từ đó lôi cuốn học sinh đến với giờ Tập làm văn. Học sinh của tôi không còn chán ngán phân môn Tập làm văn, thay vào đó là sự hứng thú trong mỗi giờ học được thể hiện rõ rệt. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp giáo viên xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú, khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước đây. Nên bất cứ giờ dạy nào có thể tôi cũng đều sử dụng bài giảng powerpoint để tăng hứng thú cho học sinh và thay thế phần nào lối dạy học truyền thống. Tôi thấy hiệu quả rõ rệt. Học sinh của tôi tiếp thu bài nhanh hơn, thích thú hơn. Mà tôi thấy việc khai thác tư liệu có thể lấy từ các nguồn sau: + Khai thác thông tin, tranh, ảnh, tư liệu bài giảng từ mạng Internet + Khai thác tranh ảnh từ sách, tài liệu, báo chí, tạp chí ... + Khai thác từ băng hình, phim video, các phần mềm, tranh ảnh, bản đồ, hình vẽ... thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính . +Giáo viên cũng có thể tự mình thiết kế những bài giảng giàu hình ảnh, sinh động, hấp dẫn bằng cách lồng ghép các hình ảnh liên quan đến bài dạy, cũng có thể sử dụng video để tăng tính hấp dẫn và làm cho bài học trở nên thú vị hơn. Trong quá trình dạy học, chức năng của các phương tiện dạy học được xác định qua các yếu tố: mục đích dạy học, tính chất của các phương tiện dạy học và phương pháp tiến hành hoạt động dạy học. Phương tiện dạy học bao gồm 5 Tôi hiểu thuộc tính tâm lí của các em học sinh Tiểu học rất nhạy cảm, muốn được khen và rất hiếu thắng. Vì thế khi nhận xét học sinh, giáo viên động viên, khích lệ, biểu dương, khen ngợi học sinh bằng những cách sau: +Dùng những lời nói có ý nghĩa tích cực như “em đã tiến bộ”, “cô rất vui”, “cô tin em sẽ làm được”, “cô biết em sẽ làm được”, “cô khen ngợi đối với sự tiến bộ của em”, “ em đã làm mọi người ngạc nhiên vì sự tiến bộ của mình” +Dùng ngôn ngữ cơ thể tích cực như vỗ tay, nét mặt tươi vui, mỉm cười với các em. +Thể hiện thái độ thân thiện - tích cực, vui vẻ, hòa nhã, cầu tiến, chân thành với các em học sinh +Giáo viên có thể động viên các em bằng các va chạm tích cực - vỗ vai, xoa đầu, bắt tay học sinh Bên cạnh đó, giáo viên không được dùng những lời lẽ chê bai, mỉa mai, mắng mỏ, quát tháo, chửi bới đe dọa., không đánh đập, gây đau thương, hay tỏ thái độ coi thường, dè bỉu, thiếu tin tưởng học sinh. Theo tôi một người giáo viên tốt cần phải có nhiều lời khen ngợi, khen đúng lúc, kịp thời trong quá trình dạy học và tùy từng đối tượng học sinh để đưa ra lời khen phù hợp. Với những học sinh tiếp thu chậm thì tôi cần phải tìm được những điểm tiến bộ tuy nhỏ để động viên các em. Với những học sinh tiếp thu nhanh, có năng khiếu tôi cần khen đúng lúc, đúng chỗ để khuyến khích các em tích cực trong hoạt động học tập, đồng thời để các em biết được khả năng thực của mình ở mức nào. Tránh trường hợp các em ngộ nhận, chủ quan trong học tập. Có nhiều hình thức để khen ngợi, khích lệ cho học sinh. Có thể sử dụng lời nói trực tiếp, lời nhận xét, góp ý tích cực như tôi đã trình bày ở trên hoặc tặng thưởng sticker ngôi sao mặt cười như tôi vẫn thường áp dụng trong lớp học của mình. Ví dụ : Khi tổ chức các nhóm hoạt động trong dạy học phân môn Tập làm văn, nếu như nhóm nào có kết quả nhanh và chính xác hơn thì nhóm đó sẽ được tôi thưởng nhiều sticker hơn các nhóm còn lại hoặc chẳng hạn khi ra bài tập viết văn cho học sinh, em nào có bài viết tốt hoặc có tiến bộ vượt bậc so với các bài viết trước thì các em đó cũng sẽ được tặng thưởng sticker mang về cho mình. Các sticker đó mang lại hứng thú, niềm vui trong học tập cho các em. Qua quá trình áp dụng, tôi thấy đây thực sự là một cách tạo hứng thú học tập cho học sinh vô cùng hiệu quả, từ các em nhút nhát cho đến các em hay mất tập trung trong giờ học cũng hoạt động một cách rất tích cực. Giải pháp 3: Tạo hứng thú học tập bằng cách tăng cường cho học sinh nhận xét, góp ý. 7 -Giáo viên hỏi: "Lá đỏ chói lọi" miêu tả đặc điểm gì của cây sòi? Học sinh trả lời: Màu sắc. -Giáo viên hỏi: Theo em, tác giả miêu tả lá cây sòi đang ở trạng thái nào? Học sinh trả lời: Chuyển động. -Giáo viên hỏi: Từ nào cho biết lá của cây sòi đang ở trạng thái chuyển động? Học sinh trả lời: Rập rình. Giáo viên tóm lại: Phần mẫu đã chỉ ra một số đặc điểm của sự vật đầu tiên được miêu tả về hình dáng, màu sắc, chuyển động. Sau khi thực hiện biện pháp phân tích mẫu tôi thấy các em đã biết vận dụng mẫu và làm tốt các phần tiếp theo. Sau đó các em tự làm các phần còn lại rồi nhận xét cho nhau, chỉ ra được chỗ đúng chỗ sai của bạn và gợi ý cho bạn cách sửa lỗi dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tăng cường cho học sinh nhận xét, góp ý bằng việc hình thành lý thuyết - tìm đặc điểm nổi bật Trong quá trình hình thành lý thuyết miêu tả cho học sinh lớp 4, giáo viên cần sử dụng một số phương pháp đặc trưng như phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, phương pháp vấn đáp gợi mở, phương pháp phân tích ngôn ngữ kết hợp với một số hình thức dạy học phù hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học. Ở các bài hình thành lý thuyết văn miêu tả, giáo viên thường tiến hành hướng dẫn học sinh nhận diện đặc điểm loại văn bản miêu tả thông qua gợi ý, nhận xét trong sách giáo khoa. Các thao tác cần được thực hiện theo trình tự sau; - Yêu cầu học sinh đọc mục nhận xét trong sách giáo khoa, khảo sát văn bản để trả lời từng câu hỏi gợi ý. - Hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận nhằm rút ra những nhận xét về đặc điểm văn miêu tả. Ví dụ: Dạy bài: "Quan sát đồ vật" (Tiếng việt 4/ tập 1 trang 153). Giáo viên sử dụng phương pháp trực quan, phương pháp quan sát ở chỗ giáo viên cho học sinh quan sát đồ chơi mà các đem tới lớp kết hợp quan sát tranh một số đồ chơi như gấu bông, con lật đật, con búp bê... Học sinh đọc phần gợi ý trong sách giáo khoa (học cá nhân) trang 154, sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích mẫu. Giáo viên sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu, học sinh luyện tập theo mẫu đã gợi ý. Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh: - Hãy quan sát một số đồ chơi em thích và ghi lại những điều quan sát được. - Học sinh vừa quan sát vừa ghi chép lại ý quan sát, sau đó sắp xếp ý để tạo thành một dàn ý tả đồ chơi mà em thích. - Giáo viên cho học sinh trình bày những ý đã ghi được sau khi quan sát theo một dàn bài sẽ luyện thực hành giao tiếp cho học sinh. Sau đó khi nghe các bạn trình bày trước lớp về dàn ý cho bài văn miêu tả đồ chơi mà em đã chọn.Học sinh có thể tham gia nhận xét, góp ý cho bạn để phần dàn ý của bạn được hoàn thiện hơn, góp phần tích cực trong quá trình viết đoạn văn, bài văn miêu tả đồ chơi sau này. 9 - Kết quả điểm kiểm tra phân môn tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung cũng như hứng thú của học sinh đối với phân môn Tập làm văn cũng được nâng lên rõ rệt qua các bài kiểm tra, phiếu điều tra. Cụ thế: Kết quả khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt cuối học kì I năm học 2019 – 2020 Môn Tổng Số hs Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 – 6 Điểm < 5 số dự học kiểm SL % SL % SL % SL % sinh tra TV 31 31 28 90,3 3 9,7 0 0 0 0 Kết quả điều tra hứng thú học tập phân môn Tập làm văn của học sinh vào cuối học kì I Tổng số học Rất thích Thích Bình thường Không thích sinh 31 12 14 5 0 Hứng thú học phân môn Tập làm văn là thái độ lựa chọn đặc biệt của học sinh đối với quá trình, kết quả lĩnh hội và vận dụng những tri thức Tiếng Việt trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống do thấy được sức hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn học đối với bản thân. Học tốt phân môn Tập làm văn sẽ trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng cơ bản nhất để học sinh có thể sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện để học tập, vận dụng vào đời sống hàng ngày. Từ thực trạng của các em học sinh trong lớp, tôi đã đưa ra một số biện pháp nhằm giúp các em hứng thú học tập phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung hơn. Với những biện pháp đó, tôi tin tưởng sẽ góp phần tạo ra hứng thú học tập với phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4A nói riêng và tất cả các môn trong chương trình Tiểu học nói chung. Như vậy, tôi đã thêm một lần bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân mình. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_hung_th.doc