Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả con vật cho học sinh Lớp 4
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả con vật cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả con vật cho học sinh Lớp 4
PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG TRƯỜNG TH KIM LONG B BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả con vật cho học sinh lớp 4. Tác giả sáng kiến: Tạ Thị Ngọc Tuyết TamBÁO Dương, CÁO KẾT năm QUẢ 2020 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1 Tam Dương, năm 2020 2. Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn Miêu tả con vật cho học sinh lớp 4. 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Tạ Thị Ngọc Tuyết - Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường TH Kim Long B - Tam Dương - Vĩnh Phúc - Số điện thoại: 0985978458 E_mail: tathinggoctuyet@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tạ Thị Ngọc Tuyết 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Vận dụng trong công tác giảng dạy môn tiếng Việt cho học sinh lớp 4. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: tháng 3/ 2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1.Về nội dung của sáng kiến A. Nội dung lý luận 1. Chương trình và sách giáo khoa Chương trình: Tập làm văn lớp 4 một tuần có 2 tiết, tổng cộng là 62 tiết/năm học (cộng thêm 8 tiết ôn tập). * Sách giáo khoa và một số sách tham khảo. 2. Thế nào là miêu tả? Miêu tả là dùng từ ngữ để vẽ lại các chi tiết, đặc điểm của sự việc, hiện tượng, con người.... một cách sinh động cụ thể và bất kỳ một hiện tượng nào trong thực tế khách quan cũng có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả. Văn miêu tả là loại văn giàu cảm xúc, những rung động, những nhận xét tinh tế, dồi dào sức sáng tạo nhằm mục đích thông báo thẩm mỹ. Người đọc qua văn bản miêu tả nhận thức thực tế khách quan chủ yếu bằng những cảm xúc, những rung động mạnh mẽ của tâm hồn. 3. Các kiểu bài miêu tả ở lớp 4: gồm có 3 kiểu bài sau. - Miêu tả đồ vật - Miêu tả cây cối - Miêu tả con vật 4. Tiêu chí đánh giá - Theo chuẩn kiến thức kỹ năng của BGD, theo QĐ số43/ 2001- QĐ - BGD và ĐT tháng 11/ 2001 của Bộ trưởng BGD và ĐT yêu cầu về phân môn tập làm văn lớp 4 học sinh cần đạt được: * Về kiến thức 3 - Giáo viên chưa hướng dẫn được cho học sinh tìm ra phương pháp làm văn miêu tả thành công, bên cạnh năng lực quan sát còn cần sự liên tưởng, tưởng tượng và vận dụng năng lực của bản thân vào bài viết. - Một số giáo viên khi lên lớp chưa phát huy hết tính tự chủ đó là chưa biết thay đổi đề bài cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình để học sinh dễ hiểu và cảm nhận một cách thực tế hơn. - Việc chấm và sửa bài cho các em của một số giáo viên còn chung chung, chưa sửa ý, câu hay cách dùng từ đặt câu,việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật vào bài văn của học sinh nhằm phát huy cho học sinh khi học, làm tập làm văn. - Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn tập làm văn với các môn học khác. 2.Về học sinh: - Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản trực quan, chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất lượng làm văn chưa cao do đó khi viết văn còn gặp không ít khó khăn. - Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác quan để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả đó. - Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp, vốn từ - Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp, vốn từ ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương nhiều, diễn đạt ý văn mà như nói chuyện bình thường. - Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo (do sách tham khảo bán tràn lan trên thị trường) các em rập khuôn theo mà chưa biết sáng tạo chọn lọc thành cái riêng của mình. - Một số em chưa biết nội dung, tác dụng của các biện pháp nghệ thuật vào bài văn dẫn đến lời văn khô khan, thiếu hình ảnh, thiếu tình cảm. - Một số học sinh trung bình, yếu viết câu chưa thành thạo nên diễn đạt chưa mạch lạc, các ý trong bài văn còn nhiều hạn chế. - Qua thực tế nhiều năm giảng dạy lớp 4-5, tôi thấy chất lượng học tập phân môn tập làm văn của học sinh chưa cao. Chỉ được một số ít học sinh biết viết văn có bộc lộ trí tuệ và cảm xúc. Còn lại phần lớn các bài văn miêu tả của các em có bố cục chưa cân đối, mang tính liệt kê các chi tiết, bộ phận một cách đơn giản. Trình tự tả chưa hợp lý, chọn lọc chi tiết chưa tiêu biểu, đặc sắc, thiếu hình ảnh, diễn đạt chưa mạch lạc. Đặc biệt là học sinh chưa nói, viết theo cách cảm, cách nghĩ của mình. - Thực hiện khảo sát lớp 4C trường Tiểu học Kim Long B với đề bài:" Viết một đoạn văn ngắn( 8-10 câu) tả một con vật mà em yêu thích" Kết quả đạt được là: 5 nức nở ,...): và miêu tả hành động của Dế Mèn như: xòe cả hai càng ra, đạp phanh phách,...Thông qua bài tập đọc trên, học sinh đã tích lũy được một số vốn từ miêu tà về ngoại hình và hành động con vật. Hay, khi dạy bài kể chuyện “ Con vịt xấu xí” tôi cho học sinh thấy được một số từ, cụm từ miêu tả như: Quá nhỏ, yếu ớt,...( ngoại hình), chành chọe, bắt nạt, hắt hủi,..(Hành động). Khi dạy bài: “Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật” thông qua bài tập các em cũng sẽ tự tích lũy cho mình một số từ, cụm từ tả ngoại hình như: vàng đậm, đỏ tía, xanh đen, mềm mại,...(hành động) như: bệ vệ, nhanh nhẹn, liến thoắng,... Giáo viên cần lưu ý cho học sinh bộc lộ tình cảm, thái độ của mình đối với con vật yêu hay ghét, gắn bó hay không gắn bó... Để bài viết có sức biểu đạt gần gũi hơn, học sinh cần biết liên hệ bản thân mình đã làm gì để chăm sóc con vật ? ... 1.2. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh: Hiện nay, trong trường học, chúng ta dạy tập làm văn nói chung và bồi dưỡng năng khiếu viết văn cho học sinh nói riêng thường thiên về các kĩ thuật làm bài mà không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nội dung bài viết. Thường giáo viên ra một đề bài và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Còn học sinh thì gắng đọc thật nhiều bài văn làm mẫu, thậm chí còn có em bê y nguyên bài văn của người khác vào bài của mình, thì được xem là bài viết khá, nghĩa là giỏi chép văn. Khi thấy một em học sinh ngồi trước một số đề văn mà không viết được, thầy cô giáo thường cho rằng các em không nắm vững lý thuyết viết thể văn nọ, thể văn kia mà không hiểu rằng các em không có hứng thú viết vì đã không tạo ra được quan hệ thân thiết giữa bản thân và đề bài - đối tượng miêu tả, ...nghĩa là các em không có nội dung, không có gì để nói, để viết. Ví dụ: Có một lần, em được bố mẹ dẫn đi chơi vườn bách thú.Ở đó có rất nhiều con vật,em viết một đoạn văn tả lại con vật mà em ấn tượng. Với đề bài này có nhiều học sinh khó để viết được. Bởi vì trong thực tế nhiều học sinh chưa từng được trực tiếp đi tham quan vườn bách thú, nếu như bắt các em áp dụng kiến thức lí thuyết để làm bài thì chắc chắn rằng nhiều em sẽ khó viết thành bài văn theo đúng yêu cầu. Nguyên nhân của tình trạng không có gì để viết là do học sinh thiếu hụt vốn sống vốn cảm xúc. Vì vậy, thầy giáo cần đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát được. Ngoài ra giáo viên cần xây dựng cho học sinh có hứng thú và thói quen đọc sách. Phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có ích cho các em suốt cả cuộc đời, thấy được đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển, sách báo sẽ giúp học sinh có vốn từ ngữ phong phú,vốn sống, tầm nhìn, hiểu biết rộng hơn, giúp các em có khả năng phát triển sức sáng tạo.... 7 Ví dụ: Hãy tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh miêu tả trong đoạn văn sau: “ Mùa xuân cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim... đàn đàn, lũ lũ bay đi, bay về...” (Bài cây gạo – sách Tiếng Việt lớp 3) Ví dụ : Em hãy tìm những từ gợi âm thanh trong đoạn văn sau: Bầy gia cầm nhà bác Tám đang cho ăn giữa sân trông thật nhộn nhịp. Hàng chục chú gà con mới nở hơn tuần lễ lích nhích tranh nhau ăn hạt tấm bác tung ra. Ba con gà mái lại cục cục liên hồi, gọi con mình, chỉ mồi cho chúng. Một chú gà trống bỗng đâu nổi hứng vỗ cánh phành phạch vươn cổ Kéc Kè ke một hồi dài nhưng chẳng ai buồn để ý. Ở góc sân phía xa, mấy anh chàng vịt đang thời vỗ béo, cất giọng quạc quạc một cách uể oải ý chừng no mồi rồi nên không quan tâm đến lũ gà đang tíu tít đằng kia. (Sưu tầm). - Mục đích của kiểu bài này không chỉ đơn thuần yêu cầu học sinh xác định được từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh mà qua đó giúp các em thấy được giá trị, tác dụng của các từ tượng thanh, tượng hình trong văn miêu tả, qua đoạn văn này các em học được cách miêu tả đối với dạng đề tả con vật. - Ngoài ra còn giúp các em biết phân chia từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh phù hợp với từng con vật. Do vậy trước khi chọn con vật để miêu tả bước đầu giáo viên nên giúp các em hình dung xem có những từ ngữ gợi âm thanh, gợi hình ảnh nào phù hợp với con vật mà mình định tả không? Sau khi các em đã có kỹ năng nhuần nhuyễn thì việc áp dụng vào các bài viết khác sẽ dễ dàng hơn. 2.2. Giúp các em biết sử dụng từ đúng và hay - Trước tiên cần hướng các em dùng từ ngữ thật chính xác. Dùng từ đúng là rất cần thiết trong quá trình viết câu văn. Khi các em đã biết cách dùng từ chính xác, giáo viên cần gợi mở, hướng dẫn cho các em viết câu văn có dùng những từ ngữ có hình ảnh, từ hay hơn (đặc biệt là học sinh giỏi). Phần này giáo viên cần tích hợp với phân môn Luyện từ và câu trong các tiết dạy về danh từ, động từ và tính từ cũng như các tiết mở rộng vốn từ. - Ví dụ: Khi tả bộ lông của con thỏ nhà em, học sinh viết: “Bộ lông màu trắng” là câu đúng. Giáo viên có thể gợi mở cho học sinh( khá giỏi) viết câu khác có dùng từ tính từ chỉ màu sắc đồng nghĩa với màu trắng để có câu văn khác rồi so sánh câu văn đó với câu trước. Học sinh suy nghĩ rồi yêu cầu các em trình bày. Các em có thể viết: Bộ lông màu trắng nhạt; Bộ lông trắng phau; Bộ lông trắng tuyết; Bộ lông trắng như mái tóc bạc của bà em; Bộ lông trắng bạc; Bộ lông trắng như mây . Khi so sánh, các em sẽ thấy là các câu sau viết đó hay hơn. Sau đó, có thể cho các em chọn câu văn mình thích, chỉ ra lí do mình thích (với học sinh khá giỏi). - Để viết được đoạn văn, bài văn miêu tả hay, các em cần có vốn từ và biết cách sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, biết dựa vào từ để tạo ra cái mới, cái riêng, cái 9 Trên sân trên cỏ.” (Trích bài Đàn gà mới nở - Sách Tiếng Việt 2) Yêu cầu học sinh chỉ ra hình ảnh so sánh trong đoạn thơ trên ? Hình ảnh so sánh: con mẹ - hòn tơ nhỏ; chạy - lăn tròn - Đoạn thơ trên miêu tả những chú gà con lông vàng óng mượt trông như những hòn tơ mềm mại. Do hình dáng nhỏ nhắn “ bé tí” lại giống “cuộn tơ” nên khi chạy giống như lăn tròn. Việc sử dụng hình ảnh so sánh đã giúp đoạn thơ sinh động hơn, đàn gà con được miêu tả cụ thể, giàu hình ảnh, gần gũi và đáng yêu. VD: Chỉ rõ biện pháp nhân hóa đã được sử dụng trong bài thơ sau như thế nào? Đám ma bác giun. Bác Giun đào đất suốt ngày Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà Họ hàng nhà kiến kéo ra Kiến con đi trước, kiến già theo sau Cầm hương kiến Đất bạc đầu Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai Đám ma đưa đến là dài Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà Kiến Đen uống rượu la đà Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần... Trần Đăng Khoa Học sinh sẽ tự tìm ra các câu thơ có hình ảnh như: “Bác giun đào đất suốt ngày”; “Họ hàng nhà kiến kéo ra”;.Các con vật đó được nhân hóa bằng từ Bác- đào đất; họ hàng - kéo ra;...học sinh thấy cái hay của bài thơ ở chỗ, một mặt nhận ra cảnh “đám ma” với tất cả các nghi lễ, một mặt nhận ra đặc điểm sinh động của từng loài kiến. Nhà thơ đã có con mắt quan sát tinh tường nên đã ghép nhặt rất chính xác đặc điểm của từng loài kiến với các chi tiết trong một tang lễ: “Kiến đất cầm hương”, “Kiến cánh khoác màu áo tang” (vì kiến cánh có bộ lông ngoài mỏng, trắng),... * Lưu ý: Giáo viên cho học sinh thấy rõ biện pháp nhân hoá không chỉ làm cho câu văn giàu hình ảnh hơn, hay hơn mà nhờ biện pháp nhân hoá các con vật tạo nên gần gũi với con người, trở thành một người bạn tốt của chúng ta. Như vậy bài văn không chỉ đơn thuần là bài văn miêu tả mà trong đó còn có tình cảm của người viết. Có như vậy mới đạt được hiệu quả. 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_day.docx