Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài tập làm văn cho học sinh Lớp 4
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài tập làm văn cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài tập làm văn cho học sinh Lớp 4
PHẦN MỞ ĐẦU: 1/ Lý do chọn đề tài: Môn Tiếng Việt Tiểu học là môn học quan trọng và chiếm số tiết nhiều nhất. Đây là môn học công cụ để phục vụ các môn khác, rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó phân môn Tập làm văn là quan trọng nhất dạy cho học sinh cách tư duy sáng tạo. Kết quả học tập phân môn này là thể hiện sự kết tinh của các phân môn khác như: tập đọc, chính tả, luyện từ và câu. Môn Tập làm văn có tác dụng vô cùng to lớn bởi nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy và cảm nhận được nhờ các giác quan. Đối với học sinh tiểu học thì phân môn Tập làm văn là một phân môn cực khó. Đặc biệt đối với các học sinh lớp 4. Nếu ở lớp 2,3 các em chỉ được học văn nói, văn kể là chủ yếu, các em được hỏi đáp hoặc được kể theo một nội dung về một chủ điểm nhất định, chỉ cần diễn đạt ý trọn vẹn sắp xếp các ý thành một đoạn văn kể về một chủ điểm, chưa gò ép các em biết viết thành bài văn có đủ ba phần. Thì khi lên lớp 4, một bước ngoặt lớn yêu cấu các em từ những gì đă quan sát được về đồ vật, cây cối, con vật gần gũi quen thuộc buộc các em phải hình dung lại và sắp xếp ý thành dàn bài để viết thành những bài văn hoàn chỉnh. Bởi thế nên hầu hết các em chưa biết diễn đạt, liên kết câu văn thành một đoạn văn, liên kết đoạn văn thành một bài văn. Chưa biết chọn các bộ phận tiêu biểu, nổi bật của đồ vật, cây cối, con vật mình tả để tả. Chưa biết dùng từ ngữ gợi tả, gợi cảm. Hầu hết các em chỉ liệt kê những gì mình quan sát được một cách khô khan. Nắm được những điểm yếu mà các em còn vấp phải, tôi đã trăn trở tìm giải pháp làm thế nào để các em khắc phục được những khó khăn đó, làm sao để các em làm được bài văn đủ phần, đủ ý, diễn tả một cách sinh động, hấp dẫn, Làm sao để các em có hứng thú trong khi làm bài vănVì thế tôi đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm : “Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài tập làm văn cho học sinh lớp 4”. 2/ Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: * Mục tiêu: Với đề tài này mục tiêu nghiên cứu chính là khái quát các dạng bài Tập làm văn miêu tả của lớp 4, nâng cao hiệu quả của việc dạy văn miêu tả. Hình thành các bước xây dựng một bài văn có đủ ba phần. Cách tìm ý, tìm từ phù hợp trong mỗi bài văn. Cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật để diễn đạt cho bài văn sinh động hấp dẫn. Từ đó giúp các em vận dụng linh hoạt trong quá trình làm bài Tập làm văn để tháo gỡ những khó khăn mà các em còn mắc phải, giúp các em không còn sợ, còn ngại làm văn. 1 II. PHẦN NỘI DUNG II.1/ Cơ sở lý luận: Trước hết ta cần phải hiểu: Miêu tả là nêu lên các đặc điểm của sự vật, hiện tượng bằng cách làm cho các sự vật, hiện tượng đó hiện lên trực tiếp (tái hiện) trước mắt người đọc (người nghe) một cách cụ thể, sống động, như thật khiến cho người ta có thể nhìn, nghe, ngửi, sờ mó được. Đối với HS lớp 4, phân môn Tập làm văn quả là khó khăn đối với các em. Bởi lẽ, đây là môn học đòi hỏi sự sáng tạo. Nếu học tốt phân môn Tập làm văn học sinh sẽ có cơ sở tiếp thu và diễn đạt các môn học khác trong chương trình. Các em sẽ có suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt trong sáng và khoa học, cảm thụ được cái hay, cái đẹp của cuộc sống, giúp các em phát triển năng lực trí tuệ, rèn luyện các thao tác tư duy. Tư duy có phát triển thì ngôn ngữ mới phát triển. Và ngược lại, ngôn ngữ càng phát triển thì càng tạo cho tư duy phát triển nhanh hơn. Do vậy ngôn ngữ càng hoàn hảo, càng giúp cho việc diễn đạt tư tưởng tình cảm thêm chính xác, giúp khả năng nhận xét thêm sâu sắc, có khả năng trình bày được rõ ràng, chính xác những ý nghĩ và tình cảm của mình. Để các em được hướng dẫn thực hành thường xuyên người giáo viên cần phát huy tính độc lập, suy nghĩ và trí sáng tạo của các em qua từng khâu: từ việc ra đề, hướng dẫn tìm hiểu đề, hướng dẫn làm bài để các em biết phải làm gì, viết gì giúp các em tự tin, có cảm hứng sáng tạo khi làm các bài văn miêu tả. Từ đó góp phần bồi dưỡng vun đắp tình yêu tiếng Việt, biết giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, tâm hồn Việt, góp phần hình thành nhân cách của con người Việt Nam. II.2/ Thực trạng: Năm học , khi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4A với tổng số học sinh là 24 em. Trong quá trình giảng dạy môn Tập làm văn, tôi nhận thấy nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc của một bài văn miêu tả nhưng bài làm của các em còn rập khuôn, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và nghèo hình ảnh. Đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh. thiếu ý, thiếu chi tiết,...; chưa biết cách dùng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm; vốn từ lại nghèo nàn. Bởi vậy bài văn của các em thường cộc lốc, lủng củng, khô khan, nghèo cảm xúc. Bài văn trở thành một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả,Trước tình trạng đó, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp các em làm bài văn đảm bảo theo yêu cầu và giàu cảm xúc. a. Thuận lợi- khó khăn: * Thuận lợi : 3 b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp : Để gây hứng thú cho các em khi học môn này đầu tiên tôi chuẩn bị kỹ cho học sinh làm quen với từng kiểu bài. Bước đầu phải nắm vững bố cục bài văn. Với từng dạng bài, tôi nghiên cứu và đưa ra qui trình giúp các em nắm vững được kiến thức cơ bản, thể nghiệm qua một số ví dụ cụ thể ở các dạng khác nhau và cuối cùng là các em thực hành làm bài văn ở mỗi dạng. Đối với mỗi dạng bài văn miêu tả tôi giúp học sinh nhận thấy: Nội dung đủ và phong phú là yêu cầu không thể thiếu được của một bài văn. Thực hiện được yêu cầu này ngoài việc phải giúp học sinh nhận ra được cấu tạo của một kiểu bài dựa vào cách tìm hiểu qua một bài văn mẫu giáo viên cần hướng dẫn chung cách làm bài văn dựa theo các bước sau: 1- Xác định cụ thể đối tượng cần miêu tả. 2- Quan sát đối tượng cần tả theo một trình tự nhất định và ghi lại những đặc điểm ấy. 3- Lập dàn ý chi tiết cho bài văn có đủ 3 phần: Mở bài- Thân bài- Kết bài 4- Kiểm tra, soát lại dàn ý 5- Thực hành viết bài văn 6- Chuẩn bị tốt phần củng cố bài trong các tiết tập làm văn 7- Thực hiện hiệu quả tiết trả bài * Các bước tiến hành hướng dẫn học sinh khi làm mỗi dạng bài cụ thể như sau: 1- Xác định cụ thể đối tượng cần miêu tả: Dựa vào yêu cầu của đề bài để chọn đối tượng miêu tả cụ thể. Lưu ý học sinh nên chọn đồ vật, con vật, cây cối gần gũi thân quen để có thể miêu tả một cách dễ dàng và việc lồng cảm xúc vào bài văn sẽ tự nhiên hơn. a. Đối với bài văn miêu tả con vật: Nên chọn các con vật nuôi trong nhà như: chó, mèo, gà, lợn, b. Đối với bài văn miêu tả đồ vật: Nên chọn các đồ vật là đồ chơi, đồ dùng học tập, đồ vật trong nhà hay quà tặng như: búp bê, ô tô đồ chơi, cặp, bút, đồng hồ, 5 Như vậy để quan sát miêu tả con gà, học sinh cần sử dụng các giác quan như: thị giác (Quan sát các bộ phận của gà, thói quen), thính giác(nghe tiếng gà vỗ cánh và gáy,) b. Đối với bài văn miêu tả đồ vật: Có thể quan sát đồ vật từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong hay từ trong ra ngoài, Để giúp học sinh biết cách quan sát, giáo viên cần có đồ vật cụ thể hoặc đồ vật trong tranh để hướng dẫn. Ví dụ: Với đề bài "Tả cái cặp sách" có thể dùng hệ thống câu hỏi và sắp xếp các chi tiết theo trình tự sau: - Hình dáng, độ lớn của cặp? - Em hãy kể các bộ phận của cái cặp? - Cặp làm bằng gì ? màu sắc ra sao? - Mặt trước, mặt sau của cặp? - Quai cặp thế nào? - Nắp cặp, ổ khóa. - Cặp có mấy ngăn bên trong ? - Em gìn giữ và sử dụng cặp ra sao?... Như vậy để quan sát cái cặp, giáo viên hướng dẫn học sinh cần sử dụng các giác quan như: thị giác (màu sắc, các bộ phận của cặp,..), thính giác(mở khóa cặp nghe “tách”,..), xúc giác( sờ vào cặp thấy mịn, mềm,), khứu giác(mở cặp ra thấy thơm mùi vải mới hoặc nhựa mới,) c. Đối với bài văn miêu tả cây cối: Có hai cách quan sát - Quan sát đặc điểm về hình dáng của cây, các bộ phận của cây hoặc quan sát theo từng thời kỳ phát triển của cây. Ví dụ: Với đề bài “Tả cây có bóng mát” có thể dùng hệ thống câu hỏi và sắp xếp các chi tiết theo trình tự sau: - Em hãy nêu các bộ phân của cây? - Thân cây thế nào? - Gốc cây ra sao? - Nêu đặc điểm của cành cây? Của tán lá? hình dáng của lá? - Cây có hoa không? Hãy nêu hình dáng màu sắc của hoa? - Hãy nêu ích lợi của cây? 7 * Mở bài: Giới thiệu cây định tả ( Đó là cây gì? Do ai trồng? Được trồng ở đâu? từ bao giờ?...) * Thân bài: - Tả bao quát hình dáng chung của cây. - Tả từng bộ phận của cây hoặc tả theo từng thời kì phát triển của cây. ( Từ lúc cây còn nhỏ đền khi cây lớn trưởng thành ra hoa kết trái, đến lúc trái cây lớn dần và thu hoạch được,...) - Phối hợp trong khi miêu tả cây là miêu tả sự tác động của con người hay sự vật đối với cây ( Sự chăm sóc hay vui đùa của con người dưới gốc cây,... Các yếu tố thiên nhiên khác như chim chóc, ong bướm, nắng, gió tác động đến cây,...) * Kết bài: Nêu được tác dụng của cây. Sự chăm sóc hay tình cảm của người tả đối với cây. 3.2/ Trong quá trình miêu tả cần sử dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học để bài văn có hồn, sinh động hơn: a. Tập diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh nghệ thuật: Để dễ tiến hành, tôi gợi ý cho các em trong các tiết luyện tập xây dựng đoạn văn bằng những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ. Tôi luôn hướng dẫn các em biết lựa chọn chi tiết, diễn đạt câu văn bằng hình ảnh và sử dụng được một số biện pháp nghệ thuật đã học như so sánh, nhân hóa, điệp từ, đảo ngữ,.. * Văn miêu tả con vật: có thể miêu tả hình dáng xen lẫn tính nết hoặc hoạt động của con vật đồng thời lồng vào nêu cảm xúc của mình đối với con vật mà mình tả. Ví dụ: Tả con gà trống do em chăm sóc có em viết: Cái đuôi của chú có nhiều màu sắc và hơi cong. Nhưng để câu văn sinh động hơn tôi lại hỏi các em : - Đuôi gà trống nhiều màu sắc gợi cho em hình ảnh gì? (bảy sắc cầu vồng) - Những hình ảnh đó gợi cho em cảm xúc, suy nghĩ gì? (Trông thật thích mắt). Sau đó có em sửa lại: Chú có cái đuôi cong như bảy sắc cầu vồng xuất hiện trên bầu trời sau những trận mưa rào mùa hạ, trông thật thích mắt. * Văn miêu tả đồ vật: có em viết: Con gấu bông ấy thật đáng yêu. Nó có bộ lông mềm mại màu hồng điểm chấm đen ở gan bàn chân. Sau khi học sinh nêu. Tôi cho học sinh nhận xét bằng những gợi ý mở như sau: - Đề đồ vật có hồn ta nên gọi đồ vật của mình miêu tả là gì? 9 Chẳng hạn: Khi sắp xếp các ý trong bài văn miêu tả con vật có thể miêu tả hình dáng trước rồi tả các hoạt động và thói quen của con vật sau. Hoặc có thể xen kẽ vừa miêu tả hình dáng vừa tả các hoạt động và thói quen của nó. 5- Thực hành viết bài văn: Đây là khâu quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất. Trên cơ sở dàn bài đã có, các em viết thành câu, đoạn và thành bài văn hoàn chỉnh. Lời văn phải gọn gàng, ý tứ phải rõ ràng, rành mạch, trong sáng. Lại phải diễn đạt cho có hình ảnh, linh hoạt, sinh động và gợi cảm nữa. Muốn đạt như thế các em phải dựa trên cơ sở quan sát tỉ mỉ, suy nghĩ, lựa chọn cách diễn đạt tốt nhất. Một bài văn hay là phải có cách sắp xếp chặt chẽ: Mở bài, thân bài, kết bài. Phần mở bài như một lời thân ái mời chào của chúng ta đối với người khách đến thăm “vườn văn” của mình. Lời mời chào ấy phải hấp dẫn, gợi mở, gây cảm xúc ban đầu nhẹ nhàng, nêu được ý muốn diễn đạt ở toàn bài. a. Mở bài: Có hai cách mở bài: trực tiếp hoặc gián tiếp Các em có thể vào bài trực tiếp hay gián tiếp, có thể mở bài bằng một câu hoặc một đoạn văn nhưng bám sát vào nội dung yêu cầu đã xây dựng. Dựa vào cách mở bài của mỗi em mà giáo viên góp ý, không gò bó, áp đặt. Ví dụ: Khi tả chiếc đồng hồ + Có em vào đề trực tiếp: Trong gia đình nhà em có rất nhiều đồ vật nhưng em thích nhất là chiếc đồng hồ báo thức. ( Mở bài chỉ một câu nhưng đủ ý) + Có em mở bài hơi dài nhưng sinh dộng, gây ấn tượng ngay từ phút đầu: “ RengrengCô chủ ơi! Dậy tập thể dục thôi”. Ôi chao! Tiếng gọi của cái đồng hồ báo thức đây mà. Sáng nào nó cũng đánh thức tôi vào lúc sáu giờ. Nó báo hiệu một ngày mới của tôi. Ví dụ: Tả một con vật mà em thích + Có em vào đề trực tiếp: Trong gia đình nhà em có rất nhiều loài vật nhưng em thích nhất là con mèo tam thể. + Có em mở bài gián tiếp: Cả gia đình nhà em đều quý con vật. Nhà em nuôi chó, mèo, chim, cá cảnh và cả 2 con sáo hót rất hay. Nhưng người bạn thân thiết hay đón em từ cổng mỗi khi em đi đâu về là chú cún con. Ví dụ: Tả cây cối + Có em vào đề trực tiếp: Nhà em trồng rất nhiều loại cây ăn trái nhưng em thích nhất là cây sầu riêng. 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_b.docx