Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 viết tốt bài văn tả con vật

docx 21 trang lop4 13/01/2024 1830
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 viết tốt bài văn tả con vật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 viết tốt bài văn tả con vật

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 viết tốt bài văn tả con vật
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 VIẾT TỐT BÀI VĂN MIÊU 
 TẢ.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen thuộc 
và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là dạng 
văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí 
tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc 
trưng của mình, những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm 
phong phú, giúp ta cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu 
sắc hơn. Chính vì thế, văn miêu tả được đưa vào trường Tiểu học từ rất sớm ( ngay 
từ lớp 2). Đề tài của văn miêu tả với các em là những gì gần gũi, thân quen với thế 
giới trẻ thơ, các em có thể quan sát được một cách dễ dàng, cụ thể như: chiếc cặp, 
cái bàn, những vườn cây ăn quả mình yêu thích, những con vật nuôi trong nhà, 
những cảnh vật xung quanh các em, những con người thân quen với các em như 
bạn bè, thầy cô, người thân...Vì vậy, dạy tốt phân môn Tập làm văn nói chung và 
kiểu bài văn miêu tả nói riêng là vấn đề được nhiều giáo viên Tiểu học quan tâm.
 Qua thực tế, nhiều năm giảng dạy lớp 4, tôi hiếm khi phát hiện thấy học sinh 
giỏi môn Văn. Tại sao học sinh giỏi tập làm văn lại hạn chế nhiều như vậy, trong 
khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa tròn một tuổi đã biết 
nói, năm, sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt ? Chúng ta tự hào Tiếng Việt 
ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng 
một thực tế lại rất buồn vì học sinh giỏi Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm 
văn nói riêng còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học 
sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo 
nàn về từ, diễn đạt ý rườm rà, tối nghĩa. Cách dùng từ đặt câu chưa phù hợp, viết 
câu còn rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, chưa sáng tạo. Bố cục bài văn chưa rõ 
ràng, cách chấm câu, cách sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh chưa linh hoạt, chưa sinh 
động. Mặt khác, một số em còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy 
móc, chưa biết sử dụng bài văn mẫu để hình thành lối hành văn riêng của mình, - Một số giáo viên khi lên lớp chưa phát huy hết tính tự chủ đó là chưa biết thay 
đổi đề bài cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình để học sinh dễ hiểu và cảm 
nhận một cách thực tế hơn.
- Việc chấm và sửa bài cho các em của một số giáo viên còn chung chung, chưa 
sửa ý, câu hay cách dùng từ đặt câu,việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật vào 
bài văn của học sinh nhằm phát huy cho học sinh khi học, làm tập làm văn.
- Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn tập làm văn với các môn học 
khác.
2. Về học sinh:
- Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản 
trực quan, chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất 
lượng làm văn chưa cao dẫn đến khi viết văn còn gặp không ít khó khăn.
- Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác quan 
để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả đó.
- Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp, vốn từ 
ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương nhiều, diễn đạt ý văn mà như nói 
chuyện bình thường.
- Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo (do sách tham khảo bán tràn lan trên thị 
trường) các em rập khuôn theo mà chưa biết sáng tạo chọn lọc thành cái riêng của 
mình.
- Một số em chưa biết nội dung, tác dụng của các biện pháp nghệ thuật vào bài văn 
dẫn đến lời văn khô khan, thiếu hình ảnh, thiếu tình cảm.
- Một số học sinh trung bình, yếu viết câu chưa thành thạo nên diễn đạt chưa mạch 
lạc, các ý trong bài văn còn nhiều hạn chế.
II. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY TẬP LÀM VĂN CHO 
HỌC SINH. 
 Để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4, đòi hỏi người giáo viên 
phải kiên trì và bền bỉ vì đây là một công việc rất khó khăn. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh bộc lộ tình cảm, thái độ của mình đối với con vật 
yêu hay ghét, gắn bó hay không gắn bó... Để bài viết có sức biểu đạt gần gũi hơn, 
học sinh cần biết liên hệ bản thân mình đã làm gì để chăm sóc con vật ? ...
1.2. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh :
Hiện nay, trong trường học, chúng ta dạy tập làm văn nói chung và bồi dưỡng 
năng khiếu viết văn cho học sinh nói riêng thường thiên về các kĩ thuật làm bài mà 
không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nội dung bài viết. Thường giáo viên ra 
một đề bài và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Còn học sinh thì gắng đọc thật nhiều bài 
văn làm mẫu, thậm chí còn có em bê y nguyên bài văn của người khác vào bài của 
mình, thì được xem là bài viết khá, nghĩa là giỏi chép văn.
Khi thấy một em học sinh ngồi trước một số đề văn mà không viết được, thầy cô 
giáo thường cho rằng các em không nắm vững lý thuyết viết thể văn nọ, thể văn 
kia mà không hiểu rằng các em không có hứng thú viết vì đã không tạo ra được 
quan hệ thân thiết giữa bản thân và đề bài - đối tượng miêu tả, .....nghĩa là các em 
không có nội dung, không có gì để nói, để viết.
Vi dụ: Có một lần ,em được bố mẹ dẫn đi chơi vườn bách thú.Ở đó có rất nhiều 
con vật,em viết một đoạn văn tả lại con vật mà em ấn tượng.
 Với đề bài này chắc chắn rằng nhiều học sinh không thể viết được. Bởi vì 
trong thực tế nhiều học sinh chưa từng được trực tiếp đi tham quan vườn bách thú, 
nếu như bắt các em áp dụng kiến thức lí thuyết để làm bài thì chắc chắn rằng nhiều 
em sẽ khó viết thành bài văn theo đúng yêu cầu.
 Nguyên nhân của tình trạng không có gì để viết là do học sinh thiếu hụt vốn sống 
vốn cảm xúc. Vì vậy, thầy giáo cần đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm 
hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm quen với 
đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát được.
 Ngoài ra giáo viên cần xây dựng cho học sinh có hứng thú và thói quen đọc sách. 
Phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có ích cho các 
em suốt cả cuộc đời, thấy được đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo 
cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển, sách báo sẽ giúp học sinh có 
vốn từ ngữ phong phú,vốn sống, tầm nhìn, hiểu biết rộng hơn, giúp các em có khả miêu tả của các em còn thiên về kể lại sự vật, khô khan thiếu hình ảnh. Bởi vậy để 
giúp các em biết dùng từ đúng và hay, tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
Dạy tốt các dạng bài ôn tập từ, đặc biệt là từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, (để các 
em thay thế tránh tình trạng lặp từ).
Ví dụ: Tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, từ đồng nghĩa để gợi tả con vật:
+ Từ gợi âm thanh: ủn ỉn, phì phò, kéc kè e...e, phành phạch,...
+ Từ gợi hình ảnh: khệnh khạng, lăn tròn,...
Ngoài ra bản thân tôi còn hướng dẫn các em sưu tầm các bài văn miêu tả, các bài 
thơ, các tác phẩm văn xuôi như truyện ngắn, tùy bút, phóng sự,... hay yêu cầu học 
sinh tìm những từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh có trong đoạn văn, trong tác phẩm 
đó.
Ví dụ: Hãy tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh miêu tả trong đoạn văn sau:
“ Mùa xuân cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim... đàn đàn, lũ lũ bay đi, bay về...” 
 (Bài cây gạo – sách Tiếng Việt lớp 3)
Ví dụ : Em hãy tìm những từ gợi âm thanh trong đoạn văn sau: 
Bầy gia cầm nhà bác Tám đang cho ăn giữa sân trông thật nhộn nhịp. Hàng
chục chú gà con mới nở hơn tuần lễ lích nhích tranh nhau ăn hạt tấm bác tung ra. 
Ba con gà mái lại cục cục liên hồi, gọi con mình, chỉ mồi cho chúng. Một chú gà 
trống bống đâu nổi hứng vỗ cánh phành phạch vươn cổ Kéc Kè ke một hồi dài 
nhưng chẳng ai buồn để ý. Ở góc sân phía xa, mấy anh chàng vịt đang thời vỗ béo, 
cất giọng quạc quạc một cách uể oải ý chừng no mồi rồi nên không quan tâm đến 
lũ gà đang tíu tít đằng kia. (Sưu tầm).
 Mục đích của kiểu bài này không chỉ đơn thuần yêu cầu học sinh xác định 
được từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh mà qua đó giúp các em thấy được giá trị, tác 
dụng của các từ tượng thanh, tượng hình trong văn miêu tả, qua đoạn văn này các 
em học được cách miêu tả đối với dạng đề tả con vật.
 Ngoài ra còn giúp các em biết phân chia từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh phù 
hợp với từng con vật. Do vậy trước khi chọn con vật để miêu tả bước đầu giáo viên 
nên giúp các em hình dung xem có những từ ngữ gợi âm thanh, gợi hình ảnh nào Ví dụ: Tìm hình ảnh so sánh trong câu thơ sau:
 “Con mẹ đẹp sao
 Những hòn tơ nhỏ
 Chạy như lăn tròn
 Trên sân trên cỏ.”
 (Trích bài Đàn gà mới nở - Sách Tiếng Việt 2)
Yêu cầu học sinh chỉ ra hình ảnh so sánh trong đoạn thơ trên ?
Hình ảnh so sánh : con mẹ - hòn tơ nhỏ ; chạy – lăn tròn
Đoạn thơ trên miêu tả những chú gà con lông vàng óng mượt trông như những hòn 
tơ mềm mại. Do hình dáng nhỏ nhắn “ bé tý” lại giống “cuộn tơ” nên khi chạy 
giống như lăn tròn. Việc sử dụng hình ảnh so sánh đã giúp đoạn thơ sinh động hơn, 
đàn gà con được miêu tả cụ thể, giàu hình ảnh, gần gũi và đáng yêu.
Ví dụ: Chỉ rõ biện pháp nhân hóa đã được sử dụng trong bài thơ sau như thế nào?
Đám ma bác giun.
 Bác Giun đào đất suốt ngày 
 Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà 
 Họ hàng nhà kiến kéo ra 
 Kiến con đi trước, kiến già theo sau 
 Cầm hương kiến Đất bạc đầu 
 Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang 
 Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng 
 Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai 
 Đám ma đưa đến là dài 
 Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà nghển cao, con vịt bước đi chậm chạp, lạch bạch,...), Tai cho ta cảm giác về âm 
thanh (Chú gà gáy Ò ó o... hay kéc kè ke e e...), Tay cho ta cảm giác về mềm hay 
cứng,... dạy cho học sinh quan sát chính là dạy cách sử dụng các giác quan để tìm 
ra các đặc điểm của sự vật và biết lựa chọn chi tiết đặc điểm riêng của con vật để 
quan sát. Các con vật mà mình chọn để miêu tả phải có những nét nổi trội . Giáo 
viên cần hướng dẫn học sinh tìm ra các đặc điểm tiêu biểu của con vật mình định 
tả, để phân biết nó với các con vật khác giúp bài văn thêm sinh động hấp dẫn và 
độc đáo.
Ví dụ: Quan sát những đặc điểm nổi bật của con gà trống nhà em nó có gì
khác so với con gà trống nhà hàng xóm.
Ngoài ra khi dạy văn miêu tả giáo viên cần định hướng cho học sinh cách quan sát 
và quan sát có phương pháp:
- Lựa chọn trình tự quan sát:
+ Quan sát con vật từ xa đến gần.
+ Quan sát con vật từ cụ thể đến bao quát.
+ Quan sát thói quen sinh hoạt của con vật theo thời gian trong ngày.
+ Quan sát theo thời kỳ phát triển của con vật.
Ví dụ: Khi tả con mèo giáo viên có thể hỏi “Dùng tay sờ vào con mèo em có cảm 
giác như thế nào?”
 Hướng dẫn cách thu thập các nhận xét do quan sát mang lại.
 Khi học sinh trình bày kết quả quan sát, nên hướng các em trả lời bằng nhiều 
chi tiết cụ thể và sử dụng ngôn ngữ chính xác, gợi hình. Sau đó giúp các em biết 
lựa chọn, sắp xếp các chi tiết miêu tả quan sát được cho lôgíc.
 Trong thực tế giảng dạy, nghiên cứu, tôi thấy những câu văn miêu tả hay là 
những câu sử dụng từ gợi hình ảnh, gợi tả âm thanh một cách sáng tạo, gợi tả sát 
thực. Để viết được những câu văn đó học sinh phải quan sát đối tượng một cách 
tinh tế. Vì vậy tôi rất chú ý phương pháp quan sát, luôn rèn cho các em kĩ năng 
quan sát cần thiết, biết chọn các chi tiết tiêu biểu để đưa vào bài văn .Khi hướng 
dẫn quan sát, tôi luôn gợi cho các em vận dụng vốn hiểu biết, khả năng liên tưởng vận dụng kiến thức được lọc qua sách vở vào cuộc sống. Vận dụng bản đồ tư duy 
trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một 
cách sâu sắc có cách nhìn vấn đề có hệ thống, khoa học. Sử dụng bản đồ tư duy 
(mạng ý nghĩa ) là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ, diễn đạt một 
cách chủ động và sáng tạo trong dạy Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến 
việc cụ thể hoá tối đa hoạt động viết và nói của học sinh sao cho sản phẩm làm văn 
của mỗi em vừa đảm bảo được chuẩn mực cơ bản cả một thể loại văn bản vừa thể 
hiện được bản sắc cái tôi của mỗi em, trên cơ sở khai thác kinh nghiệm và hiểu biết 
của các em, cũng như những ý tưởng và ngôn từ mà các em đã chiếm lĩnh được 
qua bài “tập đọc – kể chuyện”, “luyên từ và câu” và “Tập làm văn”. Thông qua bài 
học theo chủ điểm đã được học trong SGK hay qua cuộc sống hàng ngày của các 
em. Với vốn kiến thức các em đã được trang bị trên cơ sở khai thác kinh nghiệm và 
hiểu biết, cũng như những ý tưởng và ngôn từ mà các em đã chiếm lĩnh qua các tiết 
của phân môn Tiếng Việt hay qua cuộc sống hàng ngày, nhưng để các em biết cách 
vận dụng tốt vào bài viết của mình đây cũng là một vấn đề nan giải. Để giúp các 
em vận dụng tốt vốn kiến thức mà mình đã được trang bị thì bản thân tôi đã sử 
dụng cách dạy trong tiết “Viết bài văn miêu tả” là: sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý 
nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực, cụ thể là:
- GV giới thiệu một số dạng sơ đồ mạng:
HS quan sát chọn một sơ đồ phận dụng làm bài.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_v.docx