Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 viết đoạn văn kể chuyện
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 viết đoạn văn kể chuyện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 viết đoạn văn kể chuyện
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Kĩ năng viết đoạn – đặc biệt là kĩ năng viết đoạn văn kể chuyện có vai trò cực kì quan trọng trong cuộc sống con người. Trong giao tiếp hàng ngày, con người dùng những đoạn văn thậm chí là cả những bài văn kể chuyện để tái hiện lại diễn biến các sự kiện, đặc điểm hoạt động của sự vật, sự việc hoặc của chính bản thân mình để làm phương tiện trao đổi thông tin, giáo dục hoặc truyền dạy kinh nghiệm sống cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong dạy học văn kể chuyện, kĩ năng viết đoạn có vị trí gần như quyết định đến sự thành công của bài làm văn kể chuyện. Bởi lẽ, đoạn văn kể chuyện là đơn vị, tế bào cấu tạo nên bài văn kể chuyện vì học sinh không thể tạo nên được một bài văn kể chuyện khi các em chưa biết kĩ năng viết một đoạn văn là gì. Chính kĩ năng viết đoạn sẽ giúp cho các em rèn luyện được một số phẩm chất của tư duy, nhận biết được cái đẹp, cái hay, cái tinh tế của ngôn ngữ Việt. Qua đó giúp các em càng thêm yêu thích và có ý thức giữ gìn, phát triển sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt. Văn kể chuyện cũng góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh. Thông qua các đoạn văn kể chuyện hoặc câu chuyện mẫu các em được phát triển những xúc cảm thẩm mĩ – chất liệu quan trọng để tạo nên tâm hồn cao thượng, lòng mẫn cảm chân thành trước nỗi bất hạnh, đau đớn và khổ ải của con người. Nhờ có chuyện cổ tích, trẻ nhận thức được thế giới không chỉ bằng trí tuệ mà bằng cả một trái tim chân thành, ngây thơ, thánh thiện. Đồng thời bên cạnh việc nhận thức, các em còn phản ứng lại với các sự kiện, hiện tượng của thế giới xung quanh bằng thái độ yêu ghét rõ ràng đối với cái thiện, cái ác, cái chính nghĩa và phi nghĩa. Ngoài ra, việc học văn kể chuyện cũng bồi dưỡng cho học sinh một số kĩ năng để hình thành năng lực văn thông qua các bài tập, các đoạn hay bài văn kể chuyện. Đây chính là những yếu tố quan trọng làm cơ sở vững chắc cho quá trình tích lũy vốn văn học trong những bậc học sau này. Giúp học sinh rèn luyện được các kĩ năng viết đoạn văn kể chuyện là nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng nhất trong dạy học văn kể chuyện ở trường Tiểu học. Mặc dù thế nhưng thực tế giảng dạy văn kể chuyện cho học sinh lớp 4 cho thấy rằng khả năng viết đoạn văn kể chuyện của học sinh ở các trường phổ thông còn rất nhiều hạn chế. Một số em có khả năng viết nhưng chưa trình bày 4. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn kể chuyện cho học sinh lớp 4. 5. Phạm vi nghiên cứu Phân môn Tập làm văn Hướng dẫn xây dựng đoạn văn kể chuyện cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Phương Liệt, Thanh Xuân, Hà Nội. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1 Phân tích tổng hợp các tài liệu dạy học `Để nghiên cứu đề tài này, tôi tham khảo và nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 4. Nghiên cứu tham khảo ở sách giáo viên. Ngoài hai loại sách chính trên tôi tìm hiểu thêm ở một số sách hướng dẫn cách đọc truyện,tâm lý trẻ em, một số sách truyện cổ tích, truyện thiếu nhi. Ngoài ra tôi còn tìm mua một số băng hình về phim truyện thiếu nhi nhằm tìm hiểu them từng nhân vật thể hiện qua cách diễn xuất của từng diễn viên nhí. Những nhân vật thật trên phim sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến trẻ em. Vì thế tôi luôn quan tâm đến tất cả các vấn đề liên quan đến việc làm sao để phát huy tối đa năng lực của từng học sinh. 6.2 Phương pháp điều tra khảo sát thực tế Tôi đã thực hiện một số lần khảo sát, trao đổi với đồng nghiệp, học sinh về vấn đề giáo dục kể chuyện hiện nay. Đa số học sinh rất thích kể chuyện( theo số liệu tôi tham khảo trong lớp thì có 36/37 em đều thích nghe kể chuyện và xem phim truyện thiếu nhi, cũng như kịch thiếu nhi và đặc biệt là truyện cổ tích). Về phía giáo viên đồng nghiệp cũng thấy rằng học sinh rất có hứng thú với tiết kể chuyện, và chờ đợi tiết kể chuyện trong niềm háo hức và tâm trạng rất vui. Còn với phụ huynh thì cho rằng kể chuyện là cách giáo dục tốt nhất đối với trẻ em. Chúng rất tin vào những câu chuyện thần kỳ, chúng luôn luôn mong muốn có một ngày nào đó mình sẽ thành nhân vật ấy, điều đó giúp trẻ có niềm tin mãnh liệt vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Ngoài ra việc dự giờ đồng nghiệp nhằm trao đổi học hỏi kinh nghiệm cũng được tôi vận dụng. Đối với học sinh sau khi được học xong tiết kể chuyện, tôi khảo sát các em bằng cách cho sử dụng một số câu hỏi nhằm kiểm tra lại những gì các em đã được tiếp thu. Sau đó (cho các em ghi lại cảm nhận của mình về câu chuyện vừa nghe) được tôi thường xuyên vận dụng để các em có Cách kể chuyện có duyên, hấp dẫn do nhiều yếu tố tạo nên: cách sắp xếp câu chuyện, cách mở đầu, kết thúc, cách thắt nút, cách lựa chọn ngôi kể, giọng kể, lựa chọn chi tiết hay, tình huống gây bất ngờ,... Muốn kể được câu chuyện, đầu tiên phải sắp xếp các sự việc trong câu chuyện theo một trình tự nhất định hay còn gọi là dàn ý. Ở nhà trường, dàn ý một câu chuyện thường có ba phần: mở chuyện, thân chuyện và kết chuyện. Trong việc sắp xếp cho dàn ý câu chuyện, điều quan trọng là các chi tiết phải tạo nên sự hợp lí. Khi có được sự sắp xếp hợp lí rồi cần chọn cách mở đầu và kết thúc chuyện cho hay. Cả cách mở đầu và kết thúc chuyện đều quan trọng. Cách mở đầu là cách mời người đọc vào sống với câu chuyện, cách kết thúc là cách tiễn người đọc ra về. Ra về mà người đọc không còn nhớ chút gì câu chuyện là người kể đã thất bại. Có nhiều cách mở đầu và kết thúc câu chuyện. Tùy vào sở thích và phong cách của mình mà họ chọn những cách mở bài và kết bài khác nhau. Những cách kết thúc hay, độc đáo thường tạo cho độc giả một sự đột ngột thú vị, một dư âm ngân nga mãi trong lòng, một sự chú ý, suy ngẫm dài lâu... Đó chính là sự thành công của câu chuyện kể. Trong văn kể chuyện, nghệ thuật là tạo ra được chỗ thắt nút, cởi nút thú vị, gợi lên suy nghĩ và gây hoang mang trong lòng người đọc. Ví dụ: Trong câu chuyện “Cửa hàng bán chó con”, điểm thắt nút là lúc cậu bé với vẻ mặt buồn buồn và nằng nặc đòi mua bằng được chú chó con tật nguyền ấy. Đây là thời điểm khiến cho người đọc tự vấn “Chú chó này có gì đặc biệt mà sao cậu bé cứ đòi mua bằng tiền mà không chịu nhận biếu không”. Lúc này mâu thuẫn đã lên đến đỉnh điểm và được tháo gỡ khi “Cậu bé khom xuống và kéo ống quần lên để lộ chân bên trái bị trẹo, quặt què, được bó bằng một thanh kim loại”. Lúc này mọi người mới vỡ lẽ ra rằng chuyện là như thế. Trong quá trình kể chuyện, người ta có thể kể theo trình tự thời gian, chuyện xảy ra trước kể trước, chuyện xảy ra sau kể sau. Người ta cũng có thể kể ngược lại, chuyện xảy ra sau kể trước, chuyện xảy ra trước kể sau. Ngoài ra còn có cách kể theo trình tự đan xen vào nhau: trước – sau, sau – trước.... Lại có chuyện kể theo lối sắp xếp song song: hai việc cùng xảy ra cùng một lúc ở hai nơi khác nhau. Riêng về ngôi kể, có thể kể theo ngôi thứ ba (lời người dẫn chuyện) hoặc cũng có thể kể ở ngôi thứ nhất (tôi, chúng tôi, em, chúng em). Ngoài ra, trong nhà trường phát triển hình thức chuyển cách kể câu chuyện đã cho từ ngôi nọ sang ngôi kia. ra cho mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ, tức là phải có năng lực sư phạm, phải biết chọn lựa tự tìm tòi những phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp, biện pháp để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh đạt kết quả cao 2.1. Thuận lợi Tiếng việt nói chung là môn học quan trọng trong nhà trường nên rất được sự quan tâm của ngành. Hàng năm thường có các đợt tập huấn nhằm củng cố và nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên. Trong đó phân môn tập làm văn cũng không ngoại lệ. Ban giám hiệu cũng như tổ chuyên môn thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho giáo viên dạy tốt, vận dụng kinh nghiêm vào công tác giảng dạy để nâng cao hiệu quả dạy học. Giáo viên thường xuyên dự giờ, tổ chức các chuyên đề, rút kinh nghiệm, hỗ trợ nhau trong quá trình công tác. Nhờ vậỵ giáo viên có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau, phát huy điểm tích cực, hạn chế, những yếu kém trong giảng dạy. Cơ sở vật chất nhà trường được trang bị đầy đủ thiết bị dạy học hiện đại, giáo viên và học sinh tiếp cận được công nghệ thông tin trong dạy và học. - Cơ sở vật chất ở các lớp tương đối đầy đủ tiện nghi, bàn ghế, phòng học. - Đời sống của phụ huynh học sinh tương đối ổn định, nền kinh tế vững chắc nên phụ huynh rất quan tâm tạo mọi điều kiện tốt đến việc học của con em mình. - 100 % các Lớp học 2 buổi / ngày. -Cách đánh giá học sinh theo tinh thần TT 22 có tính nhân văn giúp học sinh mạnh dạn tự tin và có hứng thú học tập hơn. 2.2. Khó khăn - Hình thức, phương pháp dạy học theo hướng đổi mới làm cho nhiều giáo viên lúng túng trong quá trình lên lớp, nhiều giáo viên phụ thuộc, rập khuôn theo sách giáo khoa, hay áp đặt học sinh, - Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em tiếp thu nhanh nhưng cũng nhanh quên, mức độ tập trung học tập chưa cao. Học sinh lớp 4 vốn ngôn ngữ của các em chưa nhiều: các em còn mải chơi nhiều hơn học. Việc tiếp thu bài còn thụ động theo cách truyền tải của giáo viên nên nó ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em. 3.1.2. Kỹ năng cần đạt đối với học sinh - Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp + Nhận diện đặc điểm văn bản + Phân tích đề bài, xác định yêu cầu - Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp + Xác định dàn ý của bài văn đã cho + Tìm ý và sắp xếp thành dàn ý trong bài văn kể chuyện + Quan sát đối tượng, tìm ý và sắp xếp thành dán ý trong bài văn miêu tả - Kĩ năng hiện thực hóa hoạt động giao tiếp Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt + Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt 3.2. Phương pháp dạy học Tập làm văn lớp 4 - Phương pháp thuyết trình - Phương pháp quan sát - Phương pháp thảo luận - Phương pháp luyện tập thực hành - Phương pháp nhận xét đánh giá 3.3. Tìm hiểu về nội dung và phương pháp xây dựng đoạn văn kể chuyện cho học sinh lớp 4,... 4. Thực trạng rèn luyện viết đoạn văn kể chuyện 4.1. Về phía học sinh: Bảng khảo sát kết quả học tập của HS lớp thực nghiệm và lớp đối chứng Kết quả đạt được (Điểm) Số Lớp 9-10 7-8 5-6 Dưới 5 HS SL % SL % SL % SL % Thực nghiệm 75 11 14.7 34 45.3 22 29,3 8 10,7 Đối chứng 75 10 13.3 33 44 24 32 8 10.7 Qua khảo sát thực tế về sản phẩm của học sinh lớp 4 cho thấy phần lớn các em chưa biết sử dụng các phương tiện liên kết câu. Mặc dù các em cố gắng viết cho liền mạch để ra vẻ là một đoạn văn nhưng nội dung còn quá rời rạc, sự
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_v.doc