Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

doc 21 trang lop4 13/02/2024 1900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 4
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
 ------------------------
 Mã SKKN
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ 
 CHO HỌC SINH LỚP 4
 Giáo viên: Vũ Thị Thảo Giang
 Môn : Tập làm văn
 Cấp học : Tiểu học 
 NĂM HỌC 2018 - 2019 PHẦN 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ 
1.1. Lí do chọn đề tài 
 Như chúng ta đã biết, ở Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt 
quan trọng. Đây là môn học hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử 
dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp, góp phần rèn luyện thao tác tư duy, tạo 
điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các môn học khác.
 Đặc biệt, môn Tiếng Việt lại có nhiều phân môn khác nhau. Mỗi phân 
môn chứa những nội dung, kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau; song 
phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng nhất và khó 
nhất đối với học sinh Tiểu học. Nó trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng sản 
sinh ngôn ngữ nói và viết, góp phần cùng với các môn học khác mở rộng vốn từ, 
rèn luyện khả năng tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ nhằm hình 
thành nhân cách con người. Ở lớp Bốn, văn miêu tả là dạng bài dựa vào những 
căn cứ quan sát được, cảm nhận về đối tượng (cây cối, con vật, đồ vật) đã để lại 
ấn tượng. Từ những hình ảnh trực quan sinh động đó chuyển sang tư duy trừu 
tượng và sản sinh ngôn ngữ. Đối với học sinh lớp Bốn, việc nói đúng, viết đúng, 
diễn đạt mạch lạc đã khó; vậy mà để làm văn hay có cảm xúc, giàu hình ảnh lại 
càng khó hơn nhiều. Để dạy tốt phân môn này, đòi hỏi người giáo viên phải luôn 
tìm tòi phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tổ chức hướng dẫn các hoạt động 
linh hoạt nhằm kích thích các em hứng thú học tập, lĩnh hội được kiến thức có 
hiệu quả.
 Xuất phát từ thực tế như vậy, là giáo viên đứng lớp, tôi luôn không ngừng 
nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học sao 
cho giảng dạy đạt hiệu quả. Vậy làm thế nào để dạy tốt phân môn Tập làm văn 
nhằm góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt? Vì vậy tôi đã chọn nghiên 
cứu đề tài: “Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4”
1.2. Mục đích nghiên cứu 
 - Tìm hiểu nguyên nhân khiến học sinh nhầm lẫn giữa miêu tả và kể lại.
 - Tìm hiểu nguyên nhân khiến học sinh chưa biết cách diễn đạt suy nghĩ 
của mình, những điều mà mình quan sát được thành câu văn hay, đoạn văn hay. 
 2 PHẦN 2 : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
 Như chúng ta đã biết dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học gồm nhiều 
phân môn, nhưng Phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn khó, 
mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Nó có vai trò và vị trí quan trọng trong việc 
hoàn thiện và nâng cao dần kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, mà học sinh đã được 
hình thành và xây dựng ở các phân môn khác. Học tốt được phân môn Tập làm 
văn là giúp cho các em học tốt các môn học khác. Vậy dạy phân môn Tập làm 
văn là dạy các kiến thức và kĩ năng giúp cho học sinh tạo lập và sản sinh ngôn 
bản, đồng thời giáo dục cho các em tình cảm trong sáng, rèn luyện khả năng 
giao tiếp góp phần giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt.
 Mục đích của việc dạy văn miêu tả ở Tiểu học là giúp cho các em học sinh 
có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới, thú vị về thế giới xung quanh, 
biết cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung động 
trước đối tượng được miêu tả. Rồi từ đó các em có cơ sở để tái hiện lại bằng 
ngôn ngữ giàu hình ảnh vào bài văn miêu tả. Nếu bài tập làm văn thiếu sáng tạo, 
thiếu cảm xúc, không dùng từ ngữ giàu hình ảnh thì trở nên bài văn khô khan, 
nghèo ý. Vậy để làm được bài văn miêu tả hay, không những phải thể hiện rõ 
nét, chính xác, sinh động của đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng 
tượng, tình cảm của mình đối với đối tượng miêu tả. Do đó đòi hỏi học sinh phải 
có kiến thức sâu rộng và chính xác của phân môn này, nắm vững mục tiêu chung 
của từng bài, có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, có trí óc tưởng 
tượng thật phong phú, biết cách dùng từ viết câu phù hợp, viết bố cục rõ ràng, 
diễn đạt mạch lạc...Là một giáo viên giảng dạy lớp Bốn, bản thân tôi luôn trăn 
trở, tìm mọi biện pháp để tạo điều kiện giúp đỡ các em học tốt phân môn này.
 Với những mục đích nêu trên, để giúp học sinh có kĩ năng viết văn miêu tả 
đạt hiệu quả là việc làm vô cùng cần thiết.
2.2. THỰC TRẠNG
 Qua quá trình tìm hiểu việc học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 
4A6 nói riêng và học sinh lớp Bốn ở trường Tiểu học Khương Đình nói chung, 
 4 - Giáo viên chưa khơi gợi sự ham thích học phân môn Tập làm văn, chưa 
phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh, chưa bồi 
dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt.
 Đặc biệt sau mỗi bài văn, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh nhận thấy 
được hình ảnh hay, câu văn hay cần học và những chỗ sai cần khắc phục.
2.3. BIỆN PHÁP
 Từ những thực trạng nêu trên, trong thời gian giảng dạy trên lớp, bản thân 
tôi có những biện pháp như sau:
2.3.1.Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh
 Quá trình dạy ở lớp khoảng vài tuần đầu, tôi căn cứ vào đó để phân loại 
từng đối tượng học sinh: học sinh có năng khiếu viết văn, học sinh biết cách 
diễn đạt câu nhưng chưa hay, học sinh chưa biết cách viết . 
 Cụ thể: 
 Lớp 4A6: 61 em Học sinh có năng khiếu : 5 em - chiếm 8,2 %
 Học sinh viết đúng nhưng chưa hay : 25 em chiếm 41%
 Học sinh chưa biết cách viết : 31 em chiếm 50,8 %
 Từ đó, tôi nắm chắc từng đối tượng học sinh để đề ra được kế hoạch dạy 
học phù hợp, phát triển được năng lực viết văn miêu tả, đồng thời giúp những 
em yếu biết vận dụng làm một bài văn miêu tả hoàn chỉnh.
 Chẳng hạn: Học sinh năng khiếu viết được bài văn miêu tả đúng bố cục, có 
sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, tôi hướng dẫn thêm để học sinh biết sử dụng 
nhiều từ ngữ miêu tả giàu hình ảnh và sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào 
bài để bài viết hay hơn.
 Cụ thể: Đoạn tả chú gà trống: “Con gà trống ra dáng một con gà trống oai 
vệ. Chú khoác bộ lông tía sặc sỡ nhiều màu sắc. Trên đầu đội chiếc mào đỏ 
chót. Đôi mắt sáng, con ngươi đưa đi đưa lại. Cái đuôi cao vổng lên. Những 
ngón chân có móng vuốt sắc nhọn...(bài viết của em Phạm Tuệ Linh ).
 Tôi khen bài viết của em đã hay, đã biết dùng từ giàu hình ảnh, em cần sử 
dụng thêm phép nghệ thuật vào bài. Tôi hướng dẫn viết lại đoạn viết như sau: 
Chú gà trống ra dáng một chú gà oai vệ. Chú khoác trên mình một bộ trang 
 6 * Nếu tả đồ vật: cần quan sát bao quát đồ vật, rồi quan sát tỉ mỉ từng phần 
của đồ vật theo trình tự hợp lí từ ngoài vào trong.
 Ví dụ: Tả chiếc cặp: quan sát bao quát cặp có hình thù như thế nào ? Màu 
sắc gì ? quan sát từng phần đồ vật từ ngoài vào trong, đặc biệt quan sát các bộ 
phận có đặc điểm nổi bật: phía trước cặp được trang trí hình gì? Sau cặp có bộ 
phận gì ?(quai cặp, dây đeo) Rồi đến quan sát bên trong (cặp có mấy ngăn?), 
dùng mũi ngửi thấy mùi gì? Và dùng tay sờ vào từng ngăn cặp có cảm giác như 
thế nào?
 * Nếu tả cây cối: cần quan sát kĩ từng bộ phận của cây hay từng thời kì phát 
triển của cây và ích lợi.
 Ví dụ: Tả cây xoài: Quan sát kĩ các bộ phận (thân, gốc, cành, lá, hoa, 
quả) hay từng thời kì phát triển của cây (cây non, cây lớn lên và cây trưởng 
thành cho quả) và ích lợi (cho quả, tăng thu nhập cho gia đình.)Ngoài ra 
cần sử dụng thêm các giác quan khác như mũi ngửi thấy mùi của xoài như thế 
nào?, tay sờ thấy vỏ cây, da của quả như thế nào? Và lưỡi nếm vị của quả ra 
sao?...
 * Nếu tả con vật: cần quan sát kĩ đặc điểm ngoại hình (bộ lông, mắt, mũi, 
chân, đuôi), thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của nó.
 Ví dụ: Tả con gà trống: quan sát con gà to cỡ nào ? lông màu gì ? Mào ra 
sao ? chân to hay nhỏ, đuôi thế nào ? Thói quen của gà (gáy vào sáng sớm) Hoạt 
động chính (tìm mồi, chọi nhau với gà khác). Tôi còn hướng dẫn kĩ cho học sinh 
sử dụng những giác quan khác nữa để quan sát con vật như tay thì sờ vào bộ 
lông cảm thấy thế nào? Tai để nghe tiếng gáy ra sao?...
 Đối với việc quan sát, học sinh được học cụ thể một tiết “Luyện tập quan 
sát” Giáo viên tổ chức tiết học này thật kĩ và kèm theo hệ thống câu hỏi định 
hướng để học sinh biết cách quan sát phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt 
đối tượng miêu tả này với đối tượng khác và quan sát thật hiệu quả. Giáo viên tổ 
chức cho học sinh quan sát theo nhiều hình thức: tranh ảnh, vật thật như quan sát 
đồ chơi (vật thật) quan sát con vật (tranh ảnh hoặc quan sát con vật trước ở 
nhà).
 8 Ngoài ra, tôi còn giới thiệu thêm một số từ, ngữ cần thiết để làm giàu thêm 
vốn từ cho học sinh. 
 Chẳng hạn: 
 Tả cây cối
 Thân cây to xù xì, rễ cây ăn sâu xuống lòng đất, cành đâm ra tua tủa, hoa 
kết lại từng chùm, quả treo lúc lỉu, hương thơm ngào ngạt....
 Tả con vật
 Chú khoác lên mình bộ áo đẹp; đầu tròn, mắt sáng và tinh, tai vểnh lên để 
nghe ngóng, chân nhanh nhẹn, đi lại rất nhẹ nhàng, móng vuốt sắc nhọn là vũ 
khí tự vệ và rất lợi hại, khi kiếm được mồi, chú mang về cho con cùng ăn ... 
 Từ vốn từ mà học sinh đã tích lũy được, tôi hướng dẫn cho học sinh lựa 
chọn từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả, sử dụng cho phù hợp. Khi trình bày kết quả 
quan sát được hoặc khi học sinh luyện viết đoạn, tôi đã uốn nắn, chỉ chỗ sai cho 
học sinh ngay khi phát hiện học sinh dùng chưa đúng 
 Ví dụ: Thân bút màu xanh lá cây, thon thả như búp cây. (sử dụng từ 
không phù hợp)
 Sửa lại: Thân bút màu xanh lá cây, thon nhỏ như ngón tay em.
 Ví dụ: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ mềm 
mềm. (sử dụng từ không phù hợp)
 Sửa lại: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ đều 
đều, mềm mại.
2.3.4. Tìm ý và lập dàn bài
 Trước tiên, tôi đã định hướng cho học đọc kĩ đề, xác định thể loại, kiểu bài, 
xác định nội dung tả gì? Và thể hiện tư tưởng tình cảm gì vào bài? Đối với bài 
văn miêu tả, quan sát đối tượng được miêu tả là cơ sở để học sinh tìm ý. Sau khi 
học sinh đã quan sát và có những ghi chép chi tiết về đối tượng miêu tả, tôi 
hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn của mình dựa vào hình ảnh đã quan sát và 
lựa chọn hình ảnh để lập dàn ý cho bài văn. Một bài văn hoàn chỉnh là bài văn 
phải có cách sắp xếp chặt chẽ. Mặc dù mở bài, thân bài, kết bài là ba phần riêng 
song chúng phải có sự thống nhất về ý.
 10 Để tạo cho khách sự quyến luyến không muốn rời xa, cuộc tiễn đưa ấy phải thật 
tình cảm và chân thành. Muốn vậy, khi viết phần kết bài, giáo viên hướng dẫn 
học sinh viết thật cô đọng, ngắn gọn và súc tích, tránh kết thúc một cách đơn 
điệu, tẻ nhạt và cộc lốc. Kết bài chính là kết lại, khép lại nội dung vừa trình bày 
ở phần thân bài. Vì vậy cần khép bài một cách khéo léo để nó đọng lại và mở ra 
trong lòng người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà chúng 
ta đã miêu tả, đã kể trong bài văn của mình.
 Ta có thể dùng 2 cách kết bài: Kết bài không mở rộng (Cho biết kết thúc, 
không có lời bình luận thêm) và kết bài mở rộng (nói lên tình cảm, cảm xúc của 
mình, liên tưởng và có thêm lời bình luận ).
 Ví dụ:Tả cái trống trường
 Nhờ có anh trống mà giúp cho chúng em thực hiện ra vào lớp đúng giờ. 
Khi hết giờ, chúng em tạm biệt anh trống để ra về. (Kết bài không mở rộng-Bài 
làm của em Nguyễn Đình Hiếu )
 Tiếng trống là nhịp đập thời gian của trường em. Tiếng trống là hiệu lệnh 
hoạt động cho tất cả thầy trò trong trường. Theo nhịp trống, chúng em xếp hàng. 
Theo nhịp trống, chúng em vào lớp,...Mai đây, em sẽ lớn lên, có thể đi đến bất 
cứ nơi nào, song tiếng trống trường sẽ mãi mãi đọng lại trong tâm trí em cùng 
với những kí ức đẹp đẽ của tuổi học trò. (Kết bài mở rộng-Bài làm của em 
Nguyễn Khánh Vy)
 Ví dụ: Tả đồ chơi em thích
 Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề và hướng dẫn một số câu hỏi: đề bài 
yêu cầu gì? Em chọn đồ chơi nào để tả? đồ chơi ấy có đặc điểm gì? Từ đó học 
sinh bám vào yêu cầu đề, huy động vốn từ và dựa vào kết quả quan sát được, lựa 
chọn những nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng và đầy đủ.
 Dàn ý: * Mở bài: Gấu bông là con vật em yêu thích.
 * Thân bài: Hình dáng không to lắm, gấu luôn ngồi, dáng người tròn, 
hai tay trước bụng.
 Bộ lông: màu trắng pha hồng rất xinh xắn
 Hai mắt: đen láy, trông như mắt thật rất nghịch và thông minh
 12

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_ren_ki_nang_lam_van_mieu_ta.doc