Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh Lớp 4

doc 11 trang lop4 20/10/2023 3901
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh Lớp 4
 1
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 MỘT VÀI BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 4
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 
Môn Tiếng Việt ở trường Phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho 
học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ cho 4 dạng hoạt động tương ứng với chúng là 4 kĩ 
năng: Nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. 
Đây là một phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và 
phát triển cho học sinh kĩ năng chuyển chữ viết thành ngôn ngữ, một kĩ năng quan trọng hàng 
đầu của học sinh ở bậc Tiểu học đầu tiên.
Những kinh nghiệm đời sống, những thành tưụ văn hóa, khoa học, những tư tưởng, tình cảm 
của thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn được ghi lại bằng chữ viết. Nếu 
không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống 
một cuộc sống bình thường và ngược lại.
Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây họ biết tìm hiểu, đánh 
giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc, con người có khả 
năng chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong 
của người khác, thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ 
thông tin thì biết đọc càng quan trọng vì nó giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin không 
những biết đọc Tiếng Việt mà cần phải biết đọc cả tiếng nước ngoài. Đọc chính là học, học 
nữa, học mãi, đọc để tự học, học cả đời.
Đối với học sinh kĩ năng đọc là yêu cầu cơ bản đầu tiên. Nếu không biết đọc các em sẽ không 
tham gia vào các hoạt động học các môn khác đạt kết quả được.
Vì vậy, dạy đọc có ý nghĩa rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học.
Yêu cầu kĩ năng đọc đặt ra cho học sinh lớp 4 cần đạt tới đó là:
- Đọc đúng tốc độ;
- Đọc lưu loát;
- Đọc thầm nhanh hiểu nội dung bài;
- Bước đầu biết đọc diễn cảm ở bài văn hay bài thơ nói chung, có cảm xúc, biết nhấn giọng ở 
những từ gợi cảm, gợi tả, biết đọc các lời tác giả, lời nhân vật.
Có ba yêu cầu của việc luyện đọc thành tiếng trong giờ dạy Tập đọc (đọc đúng, đọc nhanh, 
đọc diễn cảm) đọc diễn cảm thể hiện rõ nhất kĩ năng đọc của học sinh. Khi đọc diễn cảm, các 
kĩ năng đọc đúng, đọc nhanh đã đồng thời được thể hiện. Do đặc điểm nhận thức của học sinh 
lớp 4 mang tính cụ thể, do vốn ngôn ngữ và vốn sống của các em còn hạn chế nên chúng ta 
không tổ chức dạy học văn với tư cách là một môn học độc lập. Chính vì vậy đọc diễn cảm là 3
Sau khi học sinh đã được luyện đọc đúng, đảm bảo tốc độ, đọc lưu loát và được tìm hiểu nội 
dung bài học thì mới được luyện đọc diễn cảm. Đó là một điều thuận lợi để giáo viên dạy học 
sinh luyện đọc diễn cảm. Bởi lẽ sau khi học sinh đã hiểu được nội dung văn bản thì việc xác 
định giọng đọc sẽ dễ dàng hơn. Đọc diễn cảm trước hết phải xác định nội dung, nghĩa, lý của 
bài đọc, sắc thái tình cảm, giọng điệu chung của bài. Đây là nhiệm vụ của quá trình dạy đọc 
hiểu. Kết thúc quá trình đọc hiểu học sinh phải xác định được cảm xúc của bài: vui, buồn, tự 
hào, tha thiết, trang nghiêm, sâu lắng, ngợi ca ngay trong một bài cũng có thể hòa trộn nhiều 
cảm xúc.
Cần hiểu rằng “Đọc diễn cảm” không phải là đọc sao cho “điệu”, thiếu tự nhiên, dựa vào ý 
thích chủ quan của người đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài 
học. Vì vậy phải hòa nhập với câu chuyện, bài văn, bài thơ có cảm xúc mới tìm thấy ngữ điệu 
thích hợp. Chính tác phẩm quy định ngữ điệu cho chúng ta chứ không phải tự đặt ra ngữ điệu.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Hạn chế của giáo viên: 
Hiện nay, trong thực tế luyện đọc ở lớp 4, kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh chưa cao, các 
biện pháp luyện đọc diễn cảm chưa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu mong đợi. Phần lớn giáo 
viên sử dụng các biện pháp truyền thống trong việc luyện đọc diễn cảm. Một trong những biện 
pháp được sử dụng khá phổ biến trong thực tế luyện đọc diễn cảm ở Tiểu học nói chung và lớp 
4 nói riêng là luyện theo mẫu vì phương pháp này gọn nhẹ, tiết kiệm được lời giảng, phù hợp 
với nội dung dạy học. Khi sử dụng phương pháp luyện theo mẫu chúng ta phải sử dụng lượng 
thời gian, công sức cao vì đây là phương pháp mô phỏng. Học sinh thường không tránh khỏi 
bắt chước, rập khuôn, máy móc.
Và một nguyên nhân quan trọng khác làm cho chất lượng dạy tập đọc chưa tốt cũng chính là ở 
những hạn chế của giáo viên. Nhìn chung hiện nay giáo viên của chúng ta còn thiếu hụt những 
kĩ năng đọc, vì vậy không chủ động được các nội dung dạy học tập đọc. Giáo viên chưa chú ý 
chữa các lỗi phát âm cho học sinh, không có biện pháp luyện cho học sinh đọc to, đọc nhanh, 
đọc diễn cảm. Kĩ năng đọc diễn cảm là mục đích cuối cùng của chúng ta muốn có ở học sinh 
sau mỗi giờ học. Những kĩ năng này trước hết phải có ở giáo viên, thầy giáo phải đọc được bài 
tập đọc với giọng cần thiết, phải mã được nội dung bài tập đọc từ việc hiểu từ, câu đến việc 
hiểu ý, tình của văn bản. Như vậy có nghĩa là để đạt được cái đích cuối cùng ấy của giờ dạy 
tập đọc là học sinh phải đọc đúng, hay, đọc diễn cảm và hiểu nội dung văn bản, bên cạnh đó 
yêu cầu về kĩ năng đọc diễn cảm cần thiết đầu tiên là phải có kĩ năng đọc diễn cảm ở người 
giáo viên.
2. Thực trạng về học sinh: Qua điều tra đầu năm học ..... của học sinh lớp 4/3 trường Tiểu 
học ...., kết quả học sinh đọc diễn cảm đạt như sau:
 Đọc chưa diễn 
 Lớp SLHS Ngắt giọng sai Đọc sai kiểu câu
 cảm
 4/3 41 20 25 30 5
* Ngữ điệu mạnh xuất hiện ở câu cảm và câu khiến như là:
Ví dụ: Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao?
(Con chuồn chuồn nước)
2.3. Lỗi về tốc độ đọc: Ở những văn bản đòi hỏi phải thể hiện tốc độ đọc nhanh, khi yêu cầu 
đặt ra như thế học sinh thường hiểu là với văn bản này phải đọc liến thoắng đọc nhanh đến nỗi 
người nghe không thể nào theo dõi được hoặc đối với những văn bản yêu cầu đặt ra là đọc 
chậm rãi thì học sinh lại đọc quá chậm: đọc từng tiếng một rời rạc như có cảm giác học sinh 
vừa đọc vừa dừng lại để đánh vần.
2.4. Lỗi về cường độ: Khi nói đến sử dụng cường độ trong đọc diễn cảm cần phải nói đến 
chuyện dạy đọc to cho học sinh. Đọc phải đủ lớn để các bạn ngồi ở vị trí xa nhất cũng có thể 
nghe được. Nhưng thực tế trong một lớp học vẫn còn tồn tại một số học sinh đọc quá nhỏ thậm 
chí giọng đọc phát ra không đủ để cho bạn ngồi cùng bàn có thể theo dõi được.
2.5. Lỗi về cao độ: Thể hiện cao độ khi đọc là muốn nói đến chỗ lên giọng, xuống giọng. Học 
sinh ở lớp khi đọc bài còn tùy tiện lên giọng xuống giọng sau mỗi câu mà không biết chỗ đó 
có dụng ý nghệ thuật gì.
Xuất phát từ thực trạng như trên để đạt mục tiêu dạy học môn Tập đọc,bản thân tôi đã đầu tư 
các biện pháp sau :
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: 
Biện pháp 1: Chuẩn bị của giáo viên:
Khi soạn giảng, chúng ta cần xác định được mục tiêu của nội dung bài dạy, xác định rõ thể 
loại văn bản để tìm ra giọng đọc phù hợp với văn bản đó. Chúng ta luyện đọc mẫu ở nhà, có ý 
thức tự điều chỉnh mình đọc đúng hơn, hay hơn, nếu có thể ta sử dụng máy ghi âm ghi lại 
giọng đọc của mình điều này sẽ giúp mình phát hiện ra các nhược điểm để tự mình điều chỉnh, 
sửa chữa. Biết phối hợp nhịp nhàng lời mô tả giọng đọc với làm mẫu, có sự hài hòa giữa 
những lời yêu cầu chỉ dẫn về cách đọc và khả năng biểu diễn những yêu cầu chỉ dẫn này bằng 
giọng đọc mẫu diễn cảm của giáo viên.
Ngoài ra, giáo viên cũng dự tính được lỗi học sinh mắc phải trong bài để đưa ra cách chữa lỗi 
hay nhất. Và trong giờ dạy tập đọc, chúng ta không bắt ép học sinh phải đọc theo một phương 
ngữ nhất định khi mà phương ngữ các em có được khác với phương ngữ mà cô yêu cầu.
Biện pháp 2: Luyện đọc đúng, đọc lưu loát văn bản.
2.1. Luyện phát âm:
Muốn học sinh đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn cảm, trước hết, tôi phải 
giúp các em phát âm chuẩn, đọc đúng loại câu, đúng ngữ điệu câu, hiểu nội dung bài, các em 
phải biết đặt mình vào vị trí của nhân vật, của tác giả. 7
* Cách chữa lỗi về ngữ điệu yếu: Hầu hết tất cả các bài văn xuôi hay thơ khi được đặt dấu câu 
ba chấm () đọc đến đây chúng ta phải hạ giọng thấp hơn so với giọng đọc ban đầu. Dấu ba 
chấm ở đây chỉ sự ngập ngừng chưa nói hết thì phải đọc với ngữ điệu yếu.
Ví dụ: Bố khó thở lắm. . . (Nỗi dằn vặt của An drây – ca)
* Cách chữa lỗi về ngữ điệu mạnh: Hầu hết các kiểu câu khiến sẽ có những điệu mạnh hoặc 
trong một ngữ đoạn, ngữ điệu mạnh nêu bật những từ người ta muốn nhấn mạnh,đặc biệt là 
lúc này ngữ điệu mạnh trùng với trọng âm. Ví dụ: Khi đọc một đoạn trong bài: ‘’Đôi giày ba 
ta màu xanh ‘’được đọc nhấn các từ : mấp máy, ngọ nguậy, tưng tưng. Còn những câu cảm: Ôi 
chao đôi giày mới đẹp làm sao ! được đọc với giọng trầm trồ thán phục.
* Cách chữa về lỗi thể hiện ngữ điệu xuống (hạ xuống): thường dùng để kết thúc câu kể (câu 
thường thuật). Vì đường ranh giới câu không chỉ thể hiện ở chỗ ngừng mà còn ở ngữ điệu kết 
thúc đi xuống. Nếu ta không hạ gọng ở cuối mỗi câu sẽ không tạo ra sự luân chuyển nhịp 
nhàng cao độ của các câu. Vì vậy khi đọc chóng bị mệt và người nghe khó theo dõi. Ngoài ra, 
ngữ điệu xuống thường dùng để đọc lời tác giả trong những văn bản xen lẫn lời tác giả và lời 
nhân vật, nhất là khi lời tác giả lọt vào những lời nhân vật.
* Cách chữa lỗi về lên giọng: Khi đọc câu hỏi cần phải lên giọng.
Ví dụ: Có câm mồm không? phải cao giọng ở cuối câu. Tuy nhiên những câu hỏi kết thúc về 
ngữ khí thì không lên giọng.
Ví dụ: Chúa đã xơi “Mầm đá” chưa ạ ?
2.4. Luyện tập về tốc độ đọc: Để chữa lỗi về thể hiện tốc độ giáo viên cần hướng dẫn:
- Khi đọc những văn bản có nội dung miêu tả một công việc dồn dập khẩn trương thì phải đọc 
nhịp nhanh. Nhưng không có nghĩa là các em phải đọc một cách liến thoắng mà đọc với tốc độ 
nhanh hơn bình thường để người nghe có thể theo dõi được.
Ví dụ: Chơi một lúc mới nhớ lời mẹ dặn, con vội chạy một mạch đến cửa hàng/ mua thuốc/ rồi 
mang về nhà.
- Khi đọc những văn bản có cảm xúc phấn khởi tự hào cần thể hiện tốc độ không quá chậm.
- Là một bài văn xuôi trữ tình, chan chứa cảm xúc cần phải được đọc chậm. Đọc với tốc độ 
chậm là chậm so với mức bình thường chứ không phải các em đọc chậm từng tiếng một,sẽ làm 
cho người nghe hiểu sai về nội dung văn bản.
2.5. Luyện tập về cường độ:
- Giáo viên phải tập cho tất cả học sinh trong lớp mình có thói quen đọc đúng cường độ nghĩa 
là phải đọc đủ lớn để cho cả lớp và cô giáo có thể nghe được. Giáo viên giáo dục cho học sinh 
hiểu được tác hại của việc đọc quá nhỏ, thì cô và các bạn sẽ không theo dõi được, mà không 
theo dõi được thì không thể sửa sai cách đọc cho chúng ta được. 9
nhóm thực hiện các nhiệm vụ khác nhau : ví dụ trên có thể phân chia : nhóm 1 : xác định cách 
ngắt nhịp / phát hiện, đánh dấu các từ ngữ cần nhấn giọng, lên giọng, xuống giọng,....; nhóm 2 : 
xác định tốc độ đọc câu; để có cơ sở khoa học, việc phân tích cần gắn với việc tìm hiểu bài 
đọc (gắn với các câu hỏi: Vì sao tốc độ giọng đọc phải nhanh / chậm ? ...)
3.3. Luyện theo giọng đọc mẫu giúp HS rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm theo định hướng của 
mẫu. Bước này chiếm nhiều thời gian và được xem là trọng tâm của biện pháp luyện đọc theo 
mẫu. Cường độ luyện tập ở bước này cao giúp HS ghi nhớ và vận dụng tốt mẫu đã được nghe 
và phân tích. Để tránh nhàm chán đối với HS khi phải luyện tập nhiều, hình thức luyện tập cần 
phong phú (cá nhân, nhóm, thi đọc, đọc phân vai, đọc nối tiếp,...). Khi luyện tập cần bảo đảm 
thời gian của giờ học, mục tiêu của bài học. Thực hiện bước này bằng các thao tác cơ bản : 
chọn hình thức tổ chức luyện tập (cá nhân/ nhóm / tập thể); giao nội dung luyện tập; tổ chức 
luyện tập.
3.4. Nhận xét, sửa chữa, điều chỉnh, khái quát hóa về cách đọc của bài đọc giúp HS điều chỉnh, 
sửa chữa, ý thức sâu sắc về cách đọc diễn cảm bài đọc. Trong thực tế, bước này thường kết 
hợp với bước 3; chúng ta nên tổ chức nhận xét điều chỉnh theo nhóm hoặc tập thể lớp. Cách 
thức thực hiện bước này thường là: tổ chức nhận xét, điều chỉnh; khái quát về yêu cầu bài đọc.
Việc phân tích các bước trong quy trình sử dụng phương pháp luyện theo mẫu khi vận dụng 
vào qúa trình luyện đọc diễn cảm ở trên cho thấy, chúng ta không chỉ sử dụng phương pháp 
luyện theo mẫu một cách thuần túy mà đã linh hoạt kết hợp nhiều phương pháp khác (bước 2 
đã vận dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp thực hành giao tiếp ,... ). Đối với 
HS lớp 4, 5 chúng ta cần quan tâm bước 2, nếu làm tốt bước 2 sẽ tác động lớn đến kết quả 
luyện đọc của HS.
Điều khó khăn của việc sử dụng phương pháp luyện theo mẫu trong quá trình luyện đọc diễn 
cảm là chuyển hóa kết quả tri giác từ mẫu (chất liệu âm thanh ngôn ngữ nghệ thuật) thành 
giọng đọc diễn cảm, vừa có tính tái tạo, vừa có tính sáng tạo của chính bản thân HS. Do vậy, 
bản thân muốn chia sẻ những kinh nghiệm về việc vận dụng phương pháp luyện theo mẫu 
trong luyện đọc diễn cảm cho HS lớp 4.
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Qua một năm thực nghiệm về rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho 
học sinh lớp 4/3, tôi đã vận dụng những biện pháp trên và kết quả đạt được rất khả quan:
- Trong chương trình phát thanh Măng non của Liên đội TNTP trường ...., lần nào lớp tôi cũng 
được chọn HS phát thanh và được đông đảo phụ huynh, thầy cô giáo cùng các bạn đội viên 
khen ngợi.
- Điểm kiểm tra Giữa Kì II môn Tiếng Việt của lớp tôi đạt chất lượng khá cao, hơn hẳn với 
mặt bằng chung của tổ với kết quả như sau:
* 36 / 41 HS đạt Khá Giỏi Tỉ lệ 87,8 %
- 5 HS đạt Trung bình Tỉ lệ 12,2 %
- Không có học sinh Yếu

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_ren_ki_nang_doc_dien.doc