Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 4 Trường TH Ngũ Hiệp
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 4 Trường TH Ngũ Hiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 4 Trường TH Ngũ Hiệp
1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc tiểu học chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Giáo dục tiểu học là bước giáo dục cơ bản và quan trọng nhất trong nền giáo dục, giai đoạn định hình tính cách và tư duy của mỗi đứa trẻ. Mục tiêu giáo dục tiểu học là rất quan trọng đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội. Để học sinh tiểu học phát triển một cách toàn diện và phù hợp với lớp người lao động mới, đã nhiều năm ngành giáo dục tiến hành đổi mới với nhiều phương pháp: “Nêu vấn đề”, “Lấy học sinh làm trung tâm” và hiện nay đang sôi nổi với phương pháp “Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh ”; để phát huy tính tích cực của học sinh. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã xác định phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong trường học bới chính công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ làm thay đổi phương pháp dạy và học của cả thầy và trò. Đặc biết, trong thời gian gần đây, Dịch Covid 19 đang là mối nguy hại đến toàn thể người dân trên thế giới, ảnh hưởng đến kinh tế, chính trị, sức khỏe con người, nền văn hóa, nền giáo dục..., ảnh hưởng trực tiếp đến việc học tập của học sinh và dạy học của giáo viên, nhất là đối với lứa tuổi học sinh tiểu học. Vì dịch bệnh mà các con học sinh tiểu học không được đến trường, không được gặp bạn bè, thầy cô trực tiếp mà thay vào đó các con là bạn của những chiếc máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng có đường truyền Internet. Do đó, việc sử dụng công nghệ thông tin hiện nay trong dạy và học ở các nhà trường đang rất cần thiết và quan trọng. Trong quá trình đọc, kĩ năng đọc là một trong bốn kĩ năng bộ phận (nghe, đọc, nói, viết) trong hoạt động ngôn ngữ. Đọc giúp chúng ta tiếp nhận được những thành tựu văn minh của xã hội loài người. Từ đó biết khắc phục khó khăn và thấy được cái hay cái đẹp trong cuộc sống để học hỏi tiếp thu. Đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin thì việc đọc càng quan trọng góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt và làm hành trang cho những cấp học sau này. Với học sinh lớp 4 trường Tiểu học Ngũ Hiệp, địa bàn thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội, là nơi có nhiều trường hợp bị ngọng do có giọng địa phương hình thành nên thói quen nói dẫn đến việc đọc chưa chuẩn. Vì vậy cần phải có những biện pháp khắc phục, bồi dưỡng học sinh để tiến bộ và phát huy được hết khả năng của các con. Ngoài ra, khi lên lớp 4, HS đã được làm quen với máy tính, được học bộ môn tin học từ trước nên kĩ năng sử dụng tin học, công nghệ thông tin tương đối khá. Vì vậy, là một giáo viên chủ nhiệm lớp 4, tôi nhận thấy việc bồi dưỡng đọc cho các con qua ứng dụng công nghệ thông tin là một việc làm 3 V. Phạm vi nghiên cứu Với đề tài này việc nghiên cứu phải tiến hành ở nhiều trường Tiểu học với nhiều lớp khác nhau, nhưng vì điều kiện hạn chế tôi chỉ nghiên cứu đề tài này ở một khía cạnh nhỏ: Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Ngũ Hiệp. 5 2.2. Thực tế giảng dạy và dự giờ của giáo viên Bên cạnh đó, qua việc dự giờ của các bạn đồng nghiệp và thực tế giảng dạy của bản thân, tôi thấy: trong phương pháp dạy Tập đọc giáo viên còn mắc những tồn tại phổ biến là dạy bằng phương pháp truyền thống, coi nhẹ thực hành, nặng về giảng giải, chưa coi trọng việc phát triển năng lực, trí tuệ của học sinh. Coi nhẹ kĩ thuật đọc của học sinh và khâu đọc hiểu. Bản thân giáo viên còn lúng túng trong khi dạy Tập đọc, chẳng hạn như: Giọng đọc của từng bài, từng đoạn, cách chữa lỗi phát âm cho học sinh, cách phối hợp giữa đọc thành tiếng với đọc hiểu trong một bài Tập đọc. Chủ yếu dùng SGK để giảng dạy mà không có phương tiên hỗ trợ dễ gây nhàm chán, tẻ nhạt với học sinh hoặc kéo dài về thời gian khiến tình trạng “cháy giáo án” thường xuyên xảy ra. Trước đây, hầu hết các giáo viên chỉ để ý việc dạy đúng, dạy đủ quy trình tiết học, các bước lên lớp xong chưa chú trọng việc có phương pháp dạy học tập đọc sao cho tiết học hay hơn, giúp học sinh hứng thú hơn, phát triển khả năng tư duy, sáng tạo cho học sinh, từ đó giúp tiết học đạt hiệu quả cao. 2.3. Tình hình của học sinh Năm học 2021-2022, tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy và chủ nhiệm lớp 4G với tổng số 44 học sinh. Ngay từ đầu năm học, khi mới nhận lớp ở trường Tiểu học Ngũ Hiệp, thông qua những giờ Tập đọc và qua bài khảo sát chất lượng đọc đầu tháng 9 tôi đã phát hiện một số lỗi thường có ở học sinh là : - Lỗi phát âm: Phát âm chưa chuẩn; nhầm lẫn. + Tiếng có phụ âm đầu: Học sinh dễ nhầm lẫn các tiếng các phụ âm đầu l/n. + Các lỗi về vần: an/ang (con ngan/ con ngang) ; uyt/it ( xe buýt/ xe bít),.... + Cái lỗi về thanh: thanh ngã ~/ thanh hỏi ᾿ (nghỉ ngơi/ nghĩ ngơi). - Đọc ngắt ngứ, ê a, chưa lưu loát. Một số học sinh đọc chưa rõ ràng, rành mạch, chậm, đôi lúc còn ngắc ngứ dừng lại ở những tiếng khó đánh vần, đọc còn nhỏ chưa tự tin. - Một số các em ngắt nghỉ hơi không đúng chỗ. Một số học sinh chưa ngắt hơi sau những tiếng có dấu phẩy (,) hay chưa biết cách ngắt hơi khi đọc những câu văn dài. - Học sinh đọc thiếu từ hoặc thêm từ không có trong văn bản. - Học sinh đọc vẹt, không hiểu văn bản. + Chưa hiểu được một số từ thông thường. + Khi đọc thầm với yêu cầu chia đoạn của học sinh chưa làm được. + Chưa biểu hiện cảm xúc vào bài đọc. + Chưa hiểu được ý trong câu hay đoạn vừa đọc. 7 Bài 3: Nàng tiên ốc Bài 4: Người ăn xin Sau đây là bảng thống kê số học sinh phát âm đúng, sai với từng lỗi cụ thể như sau: a. Lỗi phát âm Mô tả tiếng dễ lẫn Số HS phát âm đúng Học sinh phát âm sai học Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ sinh Tiếng có phụ âm đầu “l” 44 42 96 % 2 4% Tiếng có vần ương 44 42 96 % 2 4% Tiếng có thanh ngã 44 41 94% 3 6% Tiếng có vần anh 44 42 96% 2 4% b. Lỗi đọc và hiểu văn bản Mô tả Tổng số Số HS mắc lỗi Tỉ lệ học sinh Đọc ê a, ngắc ngứ, chưa lưu loát 44 3 6 % Đọc vẹt, không hiểu văn bản 44 2 4 % Ngắt nghỉ hơi chưa đúng 44 3 6 % Đọc thiếu từ hoặc thêm từ không 44 2 4 % có trong văn bản. 3. Nguyên nhân dẫn đến những học sinh mắc những lỗi trên 3.1. Về giáo viên - Một số giáo viên hiện nay vẫn chưa biết dựa vào kiến thức cũ, kiến thức thực tế của học sinh để hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu kiến thức mới dẫn đến học sinh thụ động tiếp thu kiến thức mà thiếu đi sự liên kết các mạch kiến thức đồng thời ít có sự liên hệ với thực tế cuộc sống hàng ngày của học sinh. - Giáo viên còn lệ thuộc vào sách giáo khoa và tài liệu tham khảo mà chưa biết sáng tạo sao cho phù hợp với nội dung bài học, đối tượng học sinh, tài năng của giáo viên, phương tiện dạy học, ... của trường, của lớp mình. 3.2. Về học sinh - Học sinh ít đọc sách, chưa có thói quen say mê đọc sách. Nếu có đọc thì học sinh cũng chưa biết cách đọc, chỉ đọc qua loa, đại khái, đọc cho có cho xong mà không chịu tìm hiểu. - Một số học sinh đọc chưa lưu loát, chưa ý thức được thói quen tập trung chú ý khi đọc thầm. 9 đó đưa ra một tiêu chí đánh giá cụ thể để giúp học sinh hướng đến các yếu tố trong tiêu chí đánh giá đó. Khi học sinh đọc, giáo viên cần gọi ý kiến nhận xét của học sinh khác theo từng tiêu chí đã đề ra trong các giờ Tập đọc. Dưới đây là tiêu chí đánh giá, nhận xét phần đọc của học sinh khi dạy bài Ga-vrốt ngoài chiến lũy, Huy-gô, TV 4, Tập 2, tôi đưa ra giúp các con định hình cách đọc tốt hơn được thể hiện trên slide: Để hỗ trợ cho việc dạy học đạt hiệu quả, giáo viên có thể đưa đoạn văn bản cần đọc này vào slide trình chiếu, bổ sung hình ảnh, các hiệu ứng giúp học sinh chú ý hơn. Tuy nhiên tùy từng bài, theo từng đoạn văn mà sử dụng sao cho phù hợp tránh sự lạm dụng CNTT. 4.1.2.2. Luyện đọc đúng - Đọc đúng chính âm Tiếng Việt (âm, từ khó) Ở lớp 4, yêu cầu này đã được giảm nhẹ hơn so với lớp 1, 2 , 3. Tuy nhiên với lớp đọc yếu, việc luyện đọc đúng chính âm vẫn là yêu cầu cần thiết vì các em phát âm chưa chuẩn, dễ lẫn. Ví dụ như: + Lá trầu đọc thành ná trầu + Giã gạo đọc thành dã gạo Tôi đã đưa các từ khó đọc lên các trang trình chiếu trên phần mềm Powerpoint qua màn hình rộng sẽ tiết kiệm được thời gian. Tôi cũng sử dụng những hình ảnh, font chữ đẹp, cách xuất hiện độc đáo hoặc hướng học sinh tự tìm được từ khó thông qua trò chơi: Ong tìm chữ, Đuổi hình bắt chữ, vv.... thu hút sự chú ý của các con và gây hứng thú trong giờ học. Khi hướng dẫn các con đọc, tôi vẫn thường kết hợp hướng dẫn tỉ mỉ cả phần đọc âm trong từ ( đối với những học sinh đọc yếu và ngọn âm), tôi đọc mẫu trước sau đó cho các con phát 11 Ví dụ 3: Mang theo truyện cổ/ tôi đi Nghe trong cuộc sống/ thầm thì tiếng xưa.// Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa/ Con sông chảy/ có rặng dừa nghiêng soi.// (Truyện cổ nước mình, - Lâm Thị Mỹ Dạ - TV4, tập 1). 4.1.2.4. Rèn đọc diễn cảm Đọc diễn cảm là hình thức đọc có ngữ điệu phù hợp với nội dung văn bản nhằm truyền cảm được nội dung bài đọc đến với người nghe. Đọc diễn cảm được thực hiện trên cơ sở đọc đúng, đọc lưu loát, trôi chảy rồi sử dụng ngữ điệu khi đọc (ngắt giọng biểu cảm). Ngữ điệu đọc diễn cảm bao gồm các yếu tố sau: Ngắt nghỉ đúng, nhịp điệu phù hợp với nội dung, cường độ đọc (nhấn mạnh hay lướt nhẹ), âm lượng đọc (to hay nhỏ) giọng đọc (lên cao hay xuống thấp) và thay đổi sắc thái giọng đọc. Cũng tương tự với cách ngắt giọng logic, ở phần này tôi cũng sử dụng các slide trình chiếu với những hiệu ứng đơn giản. Riêng phần thể hiện cường độ đọc và các đoạn cần thể hiện sự sắc thái biểu cảm dùng kí hiệu gạch chân, đổi màu phông chữ rồi cho xuất hiện lần lượt trên slide thay. Ngoài ra với một số bài tập đọc có nhiều nhân vật, tôi cho các con đóng vai các nhân vật rồi đọc thể hiện giọng đọc nhân vật, tôi sẽ thể hiện từng phần đọc của các nhân vật tương ứng với hình ảnh đặc thù của nhân vật đó để giúp các con đọc trôi chảy hơn, hiệu quả hơn. Ví dụ về một số bài học đọc thực hành trên lớp: a. Ngắt nghỉ để bộc lộ được ý tứ, nội dung bài học. Để diễn tả được tình cảm yêu thương tha thiết của người mẹ Tà Ôi với con và với cách mạng thể hiện qua lời ru dịu dàng, đằm thắm. học sinh phải chú cách ngắt nhịp bài thơ như sau: Em cu Tai/ ngủ trên lưng mẹ ơi/ Em ngủ cho ngoan/ đừng rời lưng mẹ/ Mẹ giã gạo/ mẹ nuôi bộ đội/ Nhịp chày nghiêng,/ giấc ngủ em nghiêng/ Mồ hôi mẹ rơi,/ má em nóng hổi/ Vai mẹ gầy/ nhấp nhô làm gối/ Lưng đưa nôi/ và tim hát thành lời:/ b. Nhịp điệu thay đổi lúc chậm rãi, lúc nhanh hơn để phù hợp với nội dung bài đọc: Ví dụ: Trong bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu, TV 4 , tập 1, ngắt đoạn như 13 Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan Khắp người đau buốt nóng ran Mẹ ơi cô bác xóm làng đá thăm Người cho trứng, người cho cam Và anh y sĩ đã mang thuốc vào Sáng nay trời đổ mưa rào Nắng trong trái chín, ngọt ngào bay hương Cả đời đi gió đi sương Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi Mẹ vui con có quản gì Ngâm thơ, kể chuyện, rồi thì múa ca Rồi con diễn kịch giữa nhà Một mình co sắm cả ba vai chèo. Vì con mẹ khổ đủ điều Quanh đôi mắt mẹ có nhiều nếp nhăn Con mong mẹ khoẻ dần dần Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say Rồi ra đọc sách, cấy cày Mẹ là đất nước, tháng ngày của con. - Khi đọc bài này, tôi cho học sinh thảo luận cặp đôi để tìm ra cách đọc từng khổ thơ. + Khổ 1,2: giọng trầm buồn vì mẹ ốm + Khổ 3: Lo lắng vì mẹ sốt cao + Khổ 4,5: Giọng vui khi mẹ khoẻ, diễn trò cho mẹ xem. + Khổ 6,7: giọng thiết tha vì thể hiện lòng biết ơn của bạn nhỏ đối với mẹ. g. Cao giọng ở cuối câu hỏi, câu cảm, đối với câu kể, đọc theo giọng của người dẫn chuyện, chậm rãi, nhịp điệu vừa phải. Đối với câu đối thoại cần phân biệt giọng các nhân vật để khi đọc người nghe có thể biết trong bài có mấy nhân vật, hoặc đọc phân biệt nhân vật giữa người già, trẻ emCác nhân vật là người lớn thường phải đọc với giọng đĩnh đạc, trầm, thong thả hay trìu mến còn trẻ em phải đọc với giọng hồn nhiên, nhí nhảnh Hoặc cùng một nhân vật, tùy từng văn cảnh mà có giọng đọc
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_luyen_ky_nang_doc.docx