Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện Lớp 4

doc 35 trang lop4 29/01/2024 1870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện Lớp 4
 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện lớp 4
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phân môn Kể chuyện lớp 4
3. Tác giả: 
 Họ và tên: - Nữ 
 Ngày/ tháng/ năm sinh: 
 Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Tiểu học
 Chức vụ: Giáo viên 
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học 
 tỉnh Hải Dương
 Điện thoại: 
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: 
 Đơn vị: Trường Tiểu học 
 Địa chỉ: Thôn 
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 
 - Sự chỉ đạo của các cấp quản lý giáo dục;
 - Sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường;
 - Sự đầu tư về trí tuệ, công sức và lòng tận tụy tất cả vì học sinh thân 
 yêu của giáo viên.
 - Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, tài liệu tham khảo
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: 
 Từ đầu tháng 9 năm học 2016-2017 
 HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG 
 SÁNG KIẾN
 XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT
 1 đã "không còn gì để nói". Bởi vậy, sức hấp dẫn của tiết học Kể chuyện rất ít, chỉ một số 
học có năng khiếu tham gia. 
 Thực hiện sáng kiến “ Biện pháp nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện lớp 4” nhằm 
giúp tôi tích lũy thêm kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân, trao đổi kinh nghiệm với các 
đồng nghiệp trong phân môn Kể chuyện nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. 
Tuy nhiên, các vấn đề tôi nêu ra mang tính hệ thống giúp người đọc có thể hình dung 
một cách đầy đủ từ cấu trúc chương trình, thực trạng nghiên cứu của vấn đề đến các biện 
pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Kể chuyện cho học sinh lớp 4.
 4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
 Sáng kiến "Biện pháp nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện lớp 4" là một sáng 
kiến nhỏ nhưng lại có ý nghĩa thiết thực rất lớn và quan trọng trong việc phát triển các kĩ 
năng cần thiết, đặc biệt là kĩ năng nói cho học sinh Tiểu học. Các biện pháp trên ngoài 
việc ứng dụng cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Kể chuyện lớp 4 còn 
có thể triển khai áp dụng cho khối lớp 5 và vận dụng linh hoạt hơn ở các khối lớp 1, 2, 3. 
Tôi thấy đây là một tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ cho giáo viên trường tôi mà còn 
cho giáo viên tiểu học nói chung.
 Qua quá trình giảng dạy, nhờ kiên trì, bền bỉ áp dụng những biện pháp như đã nêu 
trên, tôi tiến hành khảo sát và thu được kết quả rất khả quan, các em thích và học tốt môn 
Kể chuyện hơn.
 5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
 Tổ chức họp cha mẹ học sinh ngay từ đầu năm học, phổ biến nội dung chương trình 
và yêu cầu học tập đối với lớp 4. Cha mẹ HS cần quan tâm và thường xuyên kiểm tra sự 
chuẩn bị bài của các em.
 Giáo viên cần rèn cho HS thói quen chuẩn bị bài trước khi lên lớp. Đối với tổ khối 
chuyên môn phải thường xuyên đưa nội dung của chuyên đề về Kể chuyện vào thảo luận 
và rút kinh nghiệm.
 Thường xuyên tổ chức các cuộc thi có quy mô và ý nghĩa lớn như: Thi viết và áp 
dụng sáng kiến kinh nghiệm, làm đồ dùng dạy học, thi giáo viên giỏi các cấp...
 3 Phân môn Kể chuyện lớp 4 gồm 3 kiểu bài Kể chuyện theo tranh , kiểu bài 
Kể chuyện đã nghe, đã đọc và Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Đây 
là kiểu bài rất khó đối với cả giáo viên và học sinh.
 Kể chuyện đã nghe, đã đọc: đòi hỏi học sinh phải sưu tầm các câu chuyện 
trong sách báo hoặc trong đời sống hàng ngày (nghe người thân hoặc ai đó kể), đến 
lớp kể lại cho cô giáo và các bạn cùng nghe. Câu chuyện phải có nội dung thuộc 
đúng yêu cầu của đề bài. Đây là yêu cầu tương đối cao với một số học sinh, bắt 
buộc các em phải có sự chuẩn bị trước, phải sưu tầm, tìm chọn câu chuyện ngoài 
sách giáo khoa.
 Với kiểu bài Kể chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia: yêu cầu học sinh 
phải kể những truyện về người thật, việc thật; tự tạo ra những câu chuyện từ những 
con người, sự vật có thật trong cuộc sống xung quanh mà các em đã biết, đã thấy, 
có thể ở trên sân khấu, ti vi, cũng có khi chính các em là nhân vật trong câu 
chuyện. Kiểu bài bài này vốn nằm trong phân môn Tập làm văn của sách giáo khoa 
cũ, nay được chuyển sang phân môn Kể chuyện để thực sự rèn kỹ năng nói cho 
học sinh. Bên cạnh đó, kiểu bài này còn có mục đích rèn cho học sinh thói quen 
quan sát, ghi nhớ. Đây thực sự là một yêu cầu cao đối với học sinh Tiểu học. 
Trường hợp này đòi hỏi sự sáng tạo ở mức cao. Học sinh phải nhớ lại những câu 
chuyện đã đựơc chứng kiến hoặc tham gia rồi dựa vào cách thức xây dựng câu 
chuyện đã học để sắp xếp lại các chi tiết và kể.
 Thực tế các tiết dạy kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc và chứng kiến hoặc 
tham gia: học sinh rất ít tư liệu để xây dựng cốt truyện. Các em chỉ kể vài câu đã 
"không còn gì để nói". Bởi vậy, sức hấp dẫn của tiết học Kể chuyện rất ít, chỉ một 
số học sinh tham gia.
 Vậy chương trình đưa ra loại bài mới là quá tải với học sinh ?
 Tôi cho rằng, chương trình muốn rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh thông 
qua các tình huống giao tiếp diễn ra hàng ngày. Học và vận dụng trong thực tế 
cuộc sống đó mới là cái đích của quá trình dạy học.
 5 Với kiểu bài Kể chuyện đã nghe, đã đọc (kiểu 2) và Kể chuyện được chứng kiến, 
tham gia (kiểu 3) càng yêu cầu cao với giáo viên. Nhiều tình huống xuất hiện trong tiết 
dạy khiến giáo viên lúng túng khi xử lý. Giáo viên chưa thể hiện hết vai trò của mình 
khi dạy hai kiểu bài này. Hơn nữa vốn kiến thức về nội dung truyện kể có hạn chế nên 
giáo viên khó kiểm soát được hết tất cả các câu chuyện mà học sinh chọn kể.
 *Về phía học sinh:
 Các em rất thích nghe cô kể chuyện nhưng cũng rất ngại khi được gọi kể lại 
câu chuyện cho cô và các bạn cùng nghe. Nhiều học sinh không thể hiện được 
giọng điệu, điệu bộ, cử chỉ khi kể chuyện. Các em kể chuyện thiếu tự nhiên, gò ép, 
chỉ dừng ở mức độ thuộc lòng câu chuyện (đối với học sinh năng khiếu). Học sinh 
khác kể như đọc, vừa kể vừa cố nhớ lại một cách máy móc từng câu từng chữ 
trong văn bản.
 Với tiết Kể chuyện kiểu 2 và kiểu 3, càng khó khăn hơn với học sinh. Đa số 
các em chỉ kể được câu chuyện trong sách giáo khoa mà không tìm được câu 
chuyện khác ngoài sách. Vì vậy tiết học có vẻ nhàm chán với các em vì các câu 
chuyện đó các em đều đã được biết, được học rồi.
 Kiểu bài kể chuyện thứ 3 độ khó càng nhân lên với học sinh. Trong tiết học này 
chỉ có rất ít em kể được từng đoạn truyện hay cả câu chuyện theo yêu cầu của đề bài. 
Học sinh khác nghe nhưng chưa hiểu được nội dung, ý nghĩa truyện. Tiết học trở nên 
rất trầm, nặng nề.
 Qua thực tế tìm hiểu việc dạy và học Kể chuyện của trường, bằng việc dự giờ 
thăm lớp, gặp gỡ trao đổi với giáo viên dạy lớp, tôi thấy việc dạy Kể chuyện chưa 
thực sự được chú trọng. Mỗi giáo viên chưa thấy hết tầm quan trọng của phân môn 
Kể chuyện trong chương trình. Tiết học chưa có sự chuẩn bị chu đáo của cả giáo 
viên và học sinh nên hiệu quả chưa cao. Học sinh năng khiếu chưa bộc lộ hết khả 
năng của mình còn học sinh chậm luôn thụ động, không được phát triển.
 Cách dạy học sinh trên làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình nhận thức và 
sự phát triển tư duy của các em, không đảm bảo được mục tiêu và yêu cầu dạy học 
phân môn Kể chuyện.
 7 - Kể chuyện đã nghe, đã đọc gồm 12 tiết.
 - Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia gồm 8 tiết. Số tiết dành cho kiểu 
bài này ít hơn không phải vì kiểu bài này không được coi trọng mà vì kiểu bài này 
mới và khó hơn nên chỉ bắt đầu dạy từ tuần thứ 9 của chương trình học. Tuy nhiên, 
theo điều chỉnh nội dung chương trình dạy học, để phù hợp hơn với trình độ và 
nhận thức của học sinh tiểu học, 5/8 tiết kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia 
đã được điều chỉnh: không dạy. Thay vào đó, giáo viên có thể cho học sinh luyện 
tập kể những câu chuyện các em đã được nghe, được đọc nằm trong chủ điểm đang 
học.
 Những câu chuyện của 31 tiết Kể chuyện đều gắn với 10 chủ điểm trong SGK 
Tiếng Việt lớp 4. Đó là những vấn đề về đời sống tinh thần của con người như phẩm 
chất năng lực (tài năng, sức khoẻ, thẩm mỹ); sở thích (du lịch, thám hiểm, vui chơi). 
Tên 10 chủ điểm đó là: 
 Thương người như thể thương thân.
 Măng mọc thẳng.
 Trên đôi cánh ước mơ.
 Có chí thì nên.
 Tiếng sáo diều.
 Người ta là hoa đất.
 Vẻ đẹp muôn màu.
 Những người quả cảm.
 Khám phá thế giới.
 Tình yêu cuộc sống.
 9 Qua bảng so sánh trên có thể thấy: 
 Kiểu bài 2 khó hơn kiểu bài 1 vì các em phải tự đọc, tự tìm truyện trong sách 
báo hoặc trong đời sống hằng ngày (nghe người thân, hoặc ai đó kể) để kể lại. Tuy 
nhiên, nếu học sinh tìm được câu chuyện để kể thì kiểu bài 2 lại dễ hơn kiểu bài 1 
vì với kiểu bài 2 các em có nhiều cơ hội đạt được thành công hơn do có cả một 
tuần để chuẩn bị. Với kiểu bài 1 thì sự chuẩn bị trước chỉ là xem tranh minh hoạ và 
đọc yêu cầu của bài kể chuyện trong sách giáo khoa. Thích thú với câu chuyện 
chọn được và muốn trổ tài với các bạn. Các em có thể đọc kĩ truyện hoặc luyện kể 
trước ở nhà nên đến lớp các em sẽ chủ động, tự tin tham gia tiết học, có nhiều khả 
năng đạt được thành công hơn là chỉ nghe thấy thày cô kể chuyện một, hai lần rồi 
ghi nhớ để kể lại.
 Kiểu bài 3 khó hơn kiểu bài 2 vì đòi hỏi học sinh phải tự mình tạo ra một 
câu chuyện theo yêu cầu của đề bài. Đã là câu chuyện thì phải có cốt truyện gồm 
các nhân vật và diễn biến sự việc xung quanh các nhân vật đó.
 4. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐỂ DẠY TỐT 3 KIỂU BÀI KỂ CHUYỆN.
 4.1. Kiểu bài kể chuyện theo tranh.
 Chúng ta cần phân biệt được kể chuyện theo tranh và dùng tranh minh họa 
cho truyện. Tranh ảnh là đồ dùng trực quan có thể được sử dụng trong bất kì môn 
học nào. Nhưng các môn học khác sử dụng tranh khi giới thiệu khái niệm hoặc 
nhằm minh họa cho khái niệm, nhưng ở tiết dạy Kể chuyện của chương trình cải 
cách giáo dục, giáo viên sử dụng tranh vẽ để minh họa cho nội dung truyện, làm 
cho lời kể mẫu của mình sinh động và hấp dẫn hơn. Còn hình thức kể chuyện theo 
tranh của chương trình mới thì hoàn toàn khác. Giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ 
tranh vẽ thể hiện nội dung và diễn biến câu chuyện. Học sinh phải dựa vào tranh 
vừa là phương tiện trợ giúp trí nhớ một cách đắc lực, vừa là công cụ làm cho việc 
thể hiện lại câu chuyện một cách sinh động và hấp dẫn. Hình thức kể chuyện theo 
tranh là hình thức rất hay, phát huy được khả năng quan sát, óc tưởng tượng đặc 
biệt là phát huy khả năng nói (ngôn ngữ) ở các em. 
 4.1.1. Về đặc điểm của bài kể chuyện:
 11 chân ấy không? Để giải thích điều đó cô cùng các em sẽ đi tìm hiểu thông qua tiết 
kể chuyện ngày hôm nay)
 Giáo viên kể nhấn các từ ngữ miêu tả hoàn cảnh, tâm trạng và nghị lực của 
cậu bé. Thể hiện được giọng các nhân vật: Cô giáo, cậu học trò.
 + Yêu cầu 1: Học sinh năng khiếu nêu nội dung tranh hình thành dàn ý sơ 
lược của truyện.
 Tranh 1: Ký đến lớp xin cô giáo cho học.
 Tranh 2: Cô giáo không dám nhận em vào học.
 Tranh 3: Cô giáo ngạc nhiên và cảm động thấy Ký tập viết bằng chân.
 Tranh 4: Ký được nhận vào học.
 Tranh 5: Cô giáo và các bạn lúc nào cũng tận tình giúp đỡ Ký.
 Tranh 6: Ký được thưởng hai huy hiệu của Bác Hồ.
 + Yêu cầu 2, 3, 4: Học sinh kể theo đoạn và cả câu chuyện trao đổi ý nghĩa 
truyện.
 * Với bài “Bàn chân kì diệu” yêu cầu phải có hệ thống các tranh vẽ phóng 
to. Nhưng chắc chắn tiết Kể chuyện sẽ thành công và lôi cuốn học sinh hơn khi 
giáo viên tìm hiểu và trình chiếu thêm cho học sinh về hình ảnh của cậu bé - thầy 
giáo Nguyễn Ngọc Ký từ khi nhỏ đến lúc trưởng thành. Từ hình ảnh thầy luyện 
viết bằng chân đến hình ảnh thầy dùng đôi chân để sử dụng máy tính như thế nào, 
trong cuộc sống sinh hoạt ra sao?...Qua đó giáo viên giúp học sinh thấy được dễ 
dàng hơn nghị lực phi thường của một con người bình thường.
 * Lời kể của giáo viên là quan trọng, tuy nhiên nếu ta biết vận dụng linh 
hoạt với công nghệ thông tin thì đó sẽ là điều hoàn hảo. Cũng vẫn tiết Kể chuyện 
“Bàn chân kì diệu”. Giáo viên có thể ghi âm lời kể chuyện ở nhà trước để chỉnh 
sửa giọng kể sao cho thật chuẩn và hấp dẫn. Việc làm đó sẽ giúp giáo viên đảm 
bảo được thời gian, thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học “Lấy học sinh 
làm trung tâm.”
 4.1.2.2. Kể mẫu tốt kết hợp ghi bảng hợp lí, đặt câu hỏi gợi sự tò mò... sẽ 
giúp học sinh chủ động tham gia tiết học.
 13

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_ke_c.doc