Mô tả SKKN Giải pháp dạy Tập đọc tích cực nhằm nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc và cảm thụ văn học cho học sinh Lớp 4
Bạn đang xem tài liệu "Mô tả SKKN Giải pháp dạy Tập đọc tích cực nhằm nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc và cảm thụ văn học cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô tả SKKN Giải pháp dạy Tập đọc tích cực nhằm nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc và cảm thụ văn học cho học sinh Lớp 4
UBND HUYỆN VĨNH BẢO TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH PHONG - TIỀN PHONG BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: Giải pháp dạy Tập đọc tích cực nhằm nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc và cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4 Tác giả: Trần Thị Chi Trình độ chuyên môn: Đại học Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường Tiểu học Vĩnh Phong -Tiền Phong b.Tính sáng tạo: - Có sự sáng tạo trong hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài theo hướng tích cực,và việc hợp tác nhóm trong rèn đọc có tác dụng khơi dậy và phát huy được tính sáng tạo ở cả người dạy và người học. 3. Khả năng áp dụng, nhân rộng: - Các giải pháp nêu trên có thể được áp dụng đối với đối tượng HS lớp 4 trường Tiểu học Vĩnh Phong -Tiền Phong 4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp a. Hiệu quả về mặt xã hội: Sáng kiến này mang lại hiệu quả tốt và rất thiết thực cho giáo viên và học sinh, giúp các em tự tin hơn, nhanh nhẹn, khéo léo, mạnh dạn hơn trong tư duy, trong học tập cũng như trong cuộc sống, góp phần thực hiện mục tiêu thế hệ trẻ, bồi dưỡng lối sống lành mạnh. b. Giá trị làm lợi khác: Sáng kiến này đem lại hiệu quả không chỉ cho ngành giáo dục mà còn mang lại hiệu quả về việc huy động gia đình học sinh cùng tham gia vào công tác giáo dục CƠ QUAN ĐƠN VỊ Tác giả sáng kiến ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Trần Thị Chi Phân môn Tập đọc còn được kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác của chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn được học, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động , được luyện tập về chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn. Ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng phân môn tập đọc có hai yêu cầu cơ bản là: - Rèn kĩ năng tập đọc. - Giúp học sinh hiểu văn bản, cảm thụ văn học. Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau, cảm thụ tốt giúp việc đọc đúng, diễn cảm tốt. Ngược lại đọc đúng và diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn thêm sâu sắc. Điều đó khẳng định rằng trong tiết tập đọc lớp 4, việc rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm cho học sinh là rất cần thiết. Trong tiết học, học sinh có đọc đúng, biết đọc diễn cảm thì viết chính tả, dùng từ, đặt câu mới đúng; viết tập làm văn mới hay. Trong hơn mười năm thực hiện việc thay sách giáo khoa thì việc đổi mới phương pháp dạy học cũng đồng thời diễn ra mạnh mẽ. Thông thường, chúng tôi dạy học phải tuân theo quy trình nhất định. Đặc biệt là đối với phân môn Tập đọc, có lẽ đó là phân môn có quy trình chặt chẽ nhất, nhiều bước nhất. 1.Ưu điểm: - Quy trình này được xây dựng rất khoa học, đảm bảo phù hợp với cấu trúc bài học trong sách giáo khoa, phù hợp với yêu cầu đổi mới trong dạy Tập đọc, có nhiều yếu tố đổi mới vượt bậc so với thời kì trước đó (chương trình SGK cũ) - Có từng bước rõ ràng, có chỉ dẫn tương đối phù hợp về sự phân bố thời gian, giúp giáo viên thực hiện một tiết dạy đảm bảo mục tiêu về kiến thức, kĩ năng của bài học. - Có sự chỉ dẫn cụ thể về các phương pháp cũng như hình thức dạy học chủ yếu, đặc trưng của phân môn Tập đọc trong một tiết dạy. 2.Tồn tại: - Quá nhiều bước nhỏ nhặt, nếu GV có sự vận dụng thiếu chọn lọc kĩ lưỡng hay vận dụng thiếu linh hoạt sẽ gặp lúng túng về mặt thời gian, khó đảm bảo hoàn thành bài trong thời gian 1 tiết học. - Tuân thủ đủ các bước theo quy trình có thể làm GV khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động học tập nhằm khơi gợi sự sáng tạo, chủ động chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kĩ năng ở học sinh. - Hiện nay, trong thực tế luyện đọc ở lớp 4, kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh chưa cao, các biện pháp luyện đọc diễn cảm chưa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu mong đợi. Phần lớn giáo viên sử dụng các biện pháp truyền thống trong việc b. Đối với học sinh: b.1. Rèn tư thế đọc - Khi ngồi đọc: cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng từ 30 - 35cm, cổ và đầu thẳng. - Khi đứng đọc: Tư thế thoải mái, hai tay cầm sách cách mắt khoảng 30cm. - Khi đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp thì sẽ không bị ngắc ngứ , thừa hoặc thiếu chữ. b.2.Rèn ý thức tự đọc - Học sinh thường xuyên rèn đọc đúng ở bất kì một văn bản nào nói chung hay trong các tiết tập đọc nói riêng. - Cần có sự ham thích đọc, có ý thức tự đọc. Sưu tầm sách, báo, truyện để đọc. 1.2.Giải pháp thứ 2: Rèn kỹ năng đọc đúng: Luyện đọc thành tiếng là cơ hội để GV trực tiếp dạy kĩ năng đọc cho cho từng HS. Đọc đúng là phát âm đúng, không đọc thừa, không đọc thiếu từng âm, vần và tiếng. Đọc đúng còn bao gồm đọc đúng các âm thanh, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ. a. Tìm hiểu nguyên nhân học sinh đọc sai tiếng, từ, câu: - Nguyên nhân về sinh lí: mắt kém nên nhìn không rõ chữ, bộ máy phát âm còn khiếm khuyết . - Nguyên nhân về tâm lí: chưa tập trung vào hoạt động đọc, hoặc đọc vội vàng, hấp tấp, ảnh hưởng thói quen phát âm ở địa phương. - Nguyên nhân về kiến thức, kĩ năng: chưa nắm vững cấu tạo tiếng, hoặc chưa nắm chắc chức năng ngữ pháp nên ngắt, nghỉ lấy hơi chưa đúng. b. Biện pháp: Khi học sinh đọc sai, tôi đã phân loại lỗi đọc, đoán biết trước nguyên nhân để có cách sửa thích hợp nhằm đảm bảo tính khoa học. Cụ thể: b.1. HS đọc sai tiếng. Trường hợp này HS thường sai ở lỗi phát âm hoặc đọc sai do không nhìn kĩ vần, đọc quá nhanh nên dẫn đến đọc sai từ, thêm hoặc bớt từ. * Trường hợp sai phụ âm đầu (thông thường là n-l): tôi yêu cầu đọc lại và gợi ý sửa lỗi phát âm chỉ cần HS nhận biết được cách phát âm và có ý thức phát âm đúng, chưa đòi hỏi phải sửa ngay được lỗi mắc. * Trường hợp sai do đọc theo thói quen, không nhìn kĩ vần, đọc quá nhanh. Tôi tập cho các em tính cẩn thận hơn, bình tĩnh hơn khi đọc bài, nhìn kĩ từ ngữ khi đọc cho chính xác hơn. VD1: Bài Người ăn xin (Tiếng Việt tập 1 trang 30) câu 3 của bài là: “Đôi mắt ông lão đỏ đọc và giàn giụa nước mắt” nhằm định hướng đọc hiểu (Đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào ? Đọc để biết, hiểu, nhớ điều gì ? ) VD: Dạy bài Dù sao trái đất vẫn quay! (Tiếng Việt tập 2 trang 85) - Đọc thầm lần 1: Sau khi giới thiệu bài, 1 học sinh khá đọc bài, cả lớp đọc thầm. Mục đích: Nắm nội dung bài. - Đọc thầm lần 2: Trong khi các bạn đọc nối tiếp đoạn (3 lượt), cả lớp cũng đọc thầm theo (2 lượt). Mục đích: Luyện phát âm và hiểu thêm về các từ ngữ trong bài. - Đọc thầm lần 3: Khi GV đọc cả bài trước khi tìm hiểu bài, cả lớp đọc thầm theo. Mục đích: Chuẩn cách đọc đúng tiếng, từ, ngắt câu dài. - Đọc thầm lần 4: HS đọc thầm đoạn 1. Mục đích : Tìm hiểu nội dung đoạn 1 để trả lời câu hỏi 1 trong SGK.. + Đọc thầm lần 5: HS đọc thầm đoạn 2. Mục đích: Tìm hiểu nội dung đoạn 2 để trả lời câu hỏi 2 trong SGK. + Đọc thầm lần 6: HS đọc thầm đoạn 3. Mục đích: Tìm hiểu nội dung đoạn 3 để trả lời câu hỏi 3 trong SGK. Như vậy, HS đã được đọc thầm gắn với yêu cầu trả lời câu hỏi tìm hiểu. b. Để giúp học sinh đọc thuận tiện trong việc đọc hiểu, cảm thụ, tôi còn chuẩn bị một số câu hỏi để học sinh hiểu thêm về nội dung bài, về nghệ thuật, chú ý các câu hỏi giúp học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, đặt câu để làm rõ nghĩa của từ (ngoài những từ ngữ SGK đã giải thích). VD1: Dạy bài Trống đồng Đông Sơn (Tiếng Việt tập 2 trang17) Câu hỏi 1: Trống đồng Đông Sơn đa dạng như thế nào ? Sau khi HS trả lời câu hỏi, tôi yêu cầu giải thích: em hiểu “những hình tròn đồng tâm ” là như thế nào ? (Các vòng tròn có tâm trùng nhau) c. Đọc kết hợp cảm thụ văn học. - Đọc kết hợp với tìm hiểu nội dung nghệ thuật của văn bản trau dồi kỹ năng đọc hiểu, nắm bắt thông tin bước đầu qua đọc, các em cảm thụ được cái hay cái đẹp của bài văn, bài thơ để tạo điều kiện cho các em đọc diễn cảm cả bài. - Ngoài việc rèn đọc đúng (phải luyện đọc) cần giúp học sinh hiểu nghĩa của từ ngữ thông qua đọc và trả lời những câu hỏi thông qua từ ngữ để học sinh hiểu được nội dung bài đọc. Ngoài hình thức cả lớp cùng tìm hiểu dưới sự hướng dẫn của giáo viên tôi còn chọn thêm những hình thức khác như: + Chia lớp thành các nhóm để học sinh cùng nhau trao đổi câu hỏi. Sau đó, đại diện các nhóm trả lời câu hỏi trước lớp. Giáo viên điều khiển lớp đối thoại, nêu nhận xét thảo luận tổng kết. + Chỉ định 1-2 em điều khiển lớp trao đổi về bài đọc dựa theo các câu hỏi trong sách giáo khoa. Học sinh điều khiển lớp có thể bổ sung câu hỏi như: “ Bạn vật, bạn đã chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Lời nói của nhân vật cần đọc với giọng ra sao? Đọc các câu cảm, câu khiến, câu hỏi cần lưu ý gì ?, các dòng thơ nào cần đọc vắt để rõ ý của bài ?, VD1 : Dạy văn xuôi: Bài Chị em tôi (Tiếng Việt tập 1 trang 59) Sau khi HS tìm giọng đọc của bài (giọng kể chuyện), phân biệt lời của các nhân vật (Giọng bố: nhẹ nhàng, tình cảm; giọng em: ngây thơ, thủng thẳng, giọng chị: giận dữ ), câu hỏi đọc cao giọng ở ý cần hỏi. Nếu học sinh đọc chưa hay, tôi có thể đọc mẫu để HS nghe giọng đọc của cô tự điều chỉnh mình đọc đúng. b.3 Tạo điều kiện cho từng HS được thực hành luyện đọc diễn cảm toàn bài (theo cặp, theo nhóm) để các em chia sẻ ý kiến rút kinh nghiệm; tổ chức cho HS thi đọc diễn cảm trước lớp để các em học tập lẫn nhau và được cô động viên, uốn nắn. Hình thức tổ chức làm việc theo nhóm thường có tác dụng tích cực hoá hoạt động học tập của HS, tạo cơ hội cho từng HS được tham gia vào việc luyện đọc diễn cảm một cách hiệu quả. Khi cô tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp, các em ở dưới là giám khảo nghe, chấm, nhận xét xem bạn nào, nhóm nào đọc hay. Cụ thể như sau: * Luyện đọc theo nhóm, tôi thường tiến hành như sau: - Nhóm đôi: 2 HS ngồi cùng bàn hoặc vị trí HS ngồi trước, sau. - Nhóm 3, 4, 5, 6: dựa vào nội dung của từng bài để chia nhóm cho phù hợp. Thường là các bài có nhiều nhân vật. Tôi thấy HS rất thích thú khi được nhập vai nhân vật đọc. *Trong khi rèn đọc diễn cảm, tôi luôn lưu ý đến các đối tượng HS: - Đối với học sinh đọc yếu: Rèn từng bước, từ thấp đến cao. Cụ thể: + Đọc phát âm đúng phụ âm đầu n-l, tiếng, từ. + Đọc ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấy phẩy, giữa các cụm từ ở những câu dài. + Đọc ngắt nhịp đúng các câu thơ. + Biết đọc nhấn giọng, thay đổi sắc thái giọng đọc phù hợp với văn cảnh và tính cách nhân vật. - Những HS rụt rè (thường đọc nhỏ), tôi luôn động viên, tuyên dương trước lớp dần dần những em này sẽ tự tin và đọc to, diễn cảm hơn. - Những HS khả năng tập trung, chú ý không bền lâu, tôi thường chỉ định đọc tiếp hoặc nhận xét bạn đọc. 2. Tính mới, tính sáng tạo: Những giải pháp tôi trình bày trên đây cũng phần nào thể hiện được tính mới, tính sáng tạo. Cụ thể như sau: a.Tính mới: * Phạm vi ảnh hưởng: -Từ tháng 9/2022 giải pháp dạy Tập đọc tích cực được đưa vào sử dụng tại lớp tôi giảng dạy. Qua một thời gian ngắn tôi thấy rõ sự hiệu quả của sáng kiến nên đã lan tỏa đến các đồng nghiệp trong khối và nhận được phản hồi tích cực từ các đồng nghiệp đó. Nhờ vậy mà các em không còn thấy nhàm chán với các tiết Tập đọc, các em đã phát huy được hết tính tích cực, năng lực tự học, hòa nhập, học nhóm và giáo viên chúng tôi cũng không còn máy móc khi dạy Tập đọc nữa. Từ đó chất lượng môn Tập đọc nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung đã được cải thiện rõ rệt. Hơn nữa các em đã say mê, hứng thú hơn rất nhiều trong các tiết Tập đọc. Tinh thần học tập đó còn lan tỏa sang cả các phân môn khác như Tập làm văn, Kể chuyện, Luyện từ và câu,...Bởi vì khi áp dụng sáng kiến này vào giảng dạy mỗi em đều được tôn trọng, phát huy năng lực của bản thân như nhau, từ đó cả những em trước kia rất nhút nhát hay chưa chăm đều được cuốn theo dòng năng lượng tích cực của các bạn trong nhóm - Với nhiều kết quả như tôi đã nêu trên, tôi mong sáng kiến kinh nghiệm này của tôi sẽ được nhân rộng và áp dụng ở khối 4 trong trường nơi tôi đang giảng dạy ở các năm học tiếp theo và sẽ được áp dụng tại các trường khác trong cụm, trong huyện và rộng hơn là trong thành phố nơi tôi công tác. * Khả năng áp dụng của sáng kiến: - Các giải pháp nêu trên có thể được áp dụng đối với đối tượng HS lớp 4 trường Tiểu học Vĩnh Phong -Tiền Phong - Các giải pháp nêu trên cũng có khả năng được nhân rộng đối với học sinh lớp 4 ở các trường trong toàn huyện cũng như toàn thành phố. Còn đối với phạm vi quốc gia thì phải có sự điều chỉnh để phù hợp hơn bởi tập tính vùng miền, lối sống sinh hoạt ở từng địa phương và đặc biệt là vấn đề về phương ngữ. 4. Hiệu quả, lợi ích thu được từ sáng kiến a. Hiệu quả về mặt xã hội: Sáng kiến này mang lại hiệu quả tốt và rất thiết thực cho giáo viên và học sinh. điều đó sẽ giúp cho học sinh biết đọc đúng và diễn cảm bài văn, bài thơ đã góp phần tạo cho các em sự say mê hứng thu trong học tập và tích lũy một vốn kiến thức văn học đáng kể cho các em. Qua các bài tập đọc, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động, được luyện tập về chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn. Đồng thời giúp các em tự tin hơn, nhanh nhẹn, khéo léo, mạnh dạn hơn trong tư duy, trong học tập cũng như trong cuộc sống, góp phần thực hiện mục tiêu thế hệ trẻ, bồi dưỡng lối sống lành mạnh. b. Giá trị làm lợi khác:
File đính kèm:
- mo_ta_skkn_giai_phap_day_tap_doc_tich_cuc_nham_nang_cao_chat.docx