Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy chính tả so sánh phụ âm đầu cho học sinh Lớp 4

doc 23 trang lop4 19/02/2024 1330
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy chính tả so sánh phụ âm đầu cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy chính tả so sánh phụ âm đầu cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy chính tả so sánh phụ âm đầu cho học sinh Lớp 4
 PHÒNG GD – ĐT GIÁ RAI
 Trường TH Phong Tân
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
(ĐỀ TÀI : “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy chính tả so sánh 
 phụ âm đầu cho học sinh lớp 4”)
Họ và tên : Trương Vũ Phương.
Năm sinh : 02/09/1979.
Trình độ chuyên môn : Đại học.
Đơn vị công tác : Trường TH Phong Tân.
Nhiệm vụ được phân công năm học 2011 - 2012: Dạy lớp.
 *******
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ :
 Nhân cách con người chỉ có thể được hình thành thông qua hoạt động và 
giao tiếp. Để xã hội tồn tại và phát triển, để giao tiếp được thuận tiện, thì mỗi 
dân tộc, mỗi quốc gia đều có ngôn ngữ riêng. Tiếng Việt là ngôn ngữ được 
thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.Trong cuộc sống hàng ngày, mọi 
người muốn giao tiếp hay trao đổi thông tin thường thông qua hai hình thức là 
sử dụng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết. Về ngôn ngữ viết thì yêu cầu trước 
tiên là phải viết đúng chính tả. Vì chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng 
ngôn ngữ viết mới không bị cản trở giữa các địa phương, các vùng trong cả 
nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước với các thế hệ đời sau.
 Trong các vấn đề về ngôn ngữ, vấn đề chính tả được đặt ra trong nhà 
trường là một cách hết sức cần thiết. Vì vậy, việc dạy chính tả phải được coi 
trọng ngay từ buổi đầu đối với học sinh tiểu học. Trong nhà trường, việc rèn 
luyện cho học sinh viết chính tả là một khâu rất cần thiết và vô cùng quan trọng 
. Dạy chính tả là dạy kỹ năng sử dụng âm tiết, chữ viết, tiến tới hiểu và sử dụng 
ngôn ngữ một cách chính xác. Việc viết đúng chính tả giúp học sinh trong quá 
 1 liệu tham khảo khác để phân tích ngững thuận lợi và khó khăn của giáo viên và 
học sinh. Khi dạy học chính tả ở trường Tiểu học nói chung ở lớp 4 nói riêng.
 - Khảo sát thực trạng dạy học bao gồm hoạt động dạy của giáo viên và hoạt 
động học của học sinh, để tìm hiểu những ưu điểm, nhược điểm, những thành 
tựu và hạn chế của hoạt động dạy học chính tả lớp 4 ở trường Tiểu học.
 - Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học chính tả so sánh phụ 
 âm đầu cho học sinh lớp 4 ở trường Tiểu học.
 3/ Cơ sở lý luận:
 a) Cơ sở tâm lý học:
 - Mục đích dạy chính tả là hình thành cho học sinh năng lực viết thành thạo 
thuần thục chữ viết Tiếng Việt theo các chuẩn chính tả, nghĩa là giúp học sinh 
hình thành các kĩ xảo chính tả.
 - Hình thành cho học sinh kĩ xảo chính tả nghĩa là giúp học sinh viết đúng 
 chính tả một cách tự động hoá, không cần phải trực tiếp nhớ tới các quy tắc 
 chính tả, không cần đến sự tham gia của ý chí. Để dạt được điều này, có thể 
 tiến hành theo hai cách: Có ý thức và không có ý thức. Cách không có ý thức 
 (còn gọi là phương pháp máy móc, cơ giới) chủ trương dạy chính tả không cần 
 biết đến sự tồn tại của các quy tắc chính tả, không cần hiểu mối quan hệ giữa 
 ngữ âm và chữ viết, những cơ sở từ vựng và ngữ pháp chính tả, mà chỉ đơn 
 thuần là việc viết đúng từng trường hợp, từng từ cụ thể. Cách dạy học này tốn 
 nhiều thời giờ, công sức và không thúc đẩy được sự phát triển của tư duy, chỉ 
 củng cố trí nhớ máy móc ở một mức độ nhất định. Cách có ý thức (còn gọi là 
 phương pháp có ý thức, có tính tự giác) chủ trương cần phải bắt đầu từ việc 
 nhận thức các quy tắc, các mẹo luật chính tả. Trên cơ sở đó, tiến hành và từng 
 bước đạt tới các kĩ xảo chính tả. Việc hình thành các kĩ xảo bằng con đường có 
 ý thức sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức. Đó là con đường ngắn nhất và có 
 hiệu quả cao nhất. Đối với học sinh tiểu học cần vận dụng cả hai cách nói trên. 
 Trong đó cách không có ý thức chủ yếu được sử dụng ở các lớp đầu cấp, còn 
 cách có ý thức cần được sử sụng thích hợp chủ yếu ở các lớp cuối cấp.
 Gần đây một số nhà nghiên cứu vấn đề dạy - học chính tả lại có xu hướng 
 3 âm, cho nên không thể thực hiện phương châm “nghe như thế nào, viết như thế 
 ấy” được. (Ví dụ : không thể viết ra dề, da đình, chời đấtnhư cách phát âm 
 miền Nam Bộ).
 - Chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế, muốn viết 
 đúng chính tả, việc nắm nghĩa của từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một 
 trong những cơ sở giúp người học viết đúng chính tả. Ví dụ nếu giáo viên đọc 
 một từ có hình thức ngữ âm là “za” thì học sinh có thể lúng túng trong việc xác 
 định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu đọc gia đình hoặc da thịt hay ra 
 vào (đọc trọn vẹn từ, mỗi từ gắn với một nghĩa xác định) thì học sinh dễ dàng 
 viết đúng chính tả. Vì vậy, có thể hiểu rằng chính tả Tiếng Việt còn là loại 
 chính tả ngữ nghĩa. Đây là một đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ 
 của chính tả Tiếng Việt mà khi dạy chính tả, giáo viên cần chú ý.
 4/ Một số nguyên tắc dạy chính tả:
 a) Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực:
 - Dạy chính tả theo khu vực nghĩa là nội dung giảng dạy về chính tả phải sát 
hợp với phương ngữ. Tức là phải xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả 
của học sinh ở từng khu vực, từng miền để hình thành nội dung giảng dạy, phải 
xác định được trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh ở từng khu vực, từng 
địa phương.
 Ví dụ phương ngữ Nam bộ: Có hiện tượng đồng nhất hoá hai phụ âm đầu /v/ 
và /z/ và đồng nhất hoá hai cặp phụ âm cuối /n/, /ng / và /t/ , /k/ khi phát âm.
Ví dụ : áo len – leng keng -> Phát âm tiếng “len “và tiếng “leng” hoàn toàn 
giống nhau.
 Xem xiếc – xiết chặt -> Phát âm tiếng “xiếc “và tiếng “xiết” hoàn toàn 
giống nhau.
 - Nguyên tắc này giáo viên trước khi dạy cần tiến hành điều tra cơ bản để 
nắm lỗi chính tả phổ biến của học sinh, từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy thích 
hợp. Nguyên tắc này giáo viên cần tăng cường sự linh hoạt sáng tạo trong giảng 
dạy, cụ thể trong việc xây dựng nội dung bài sao cho sát hợp với đối tượng học 
sinh lớp mình dạy.
 5 các qui tắc chính tả, nhớ kĩ mặt chữ trong các từ có phụ âm đầu dễ lẫn lộn.
 + Lỗi chính tả do không nắm vững cấu trúc âm tiết Tiếng Việt. Ví dụ: quyét 
sạch, qoanh co, khúc khuỷĐể sửa lỗi này học sinh cần hiểu âm tiết Tiếng Việt 
được cấu thành bởi mấy thành phần, là những thành phần nào, vị trí của từng 
thành phần trong âm tiết
 + Lỗi chính tả do viết theo lỗi phát âm địa phương hoặc do không nắm vững 
chính âm. Loại lỗi này mỗi địa phương sai một khác. Có vùng viết d thành r, có 
vùng viết l thành nĐể sửa loại lỗi này, học sinh cần nắm vững chính âm trong 
Tiếng Việt, cần tập phát âm đúng chuẩn, tập viết nhiều lần những lỗi mà địa 
phương mình thường mắc. Giáo viên có thể xây dựng các “ mẹo” để giúp học 
sinh viết đúng.
 - Để học sinh sửa các loại lỗi chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xây dựng 
cái đúng, đi từ cái sai đến cái đúng, giáo viên có thể nêu ra những đoạn văn, 
đoạn thơ trong đó có nhiều từ viết sai chính tả để học sinh mình tự phát hiện lỗi, 
tìm hiểu nguyên nhân sai và chữa lại cho đúng.
 - Phương pháp tiêu cực giúp học sinh phát hiện óc phân tích, xét đoán, đồng 
thời kiểm tra, củng cố được kiến thức về chính tả của học sinh. Phương pháp 
tiêu cực chỉ nên coi là thứ yếu, có tính chất bổ trợ cho phương pháp tích cực. 
Trong quá trình giảng dạy chính tả giáo viên cân phối hợp một cách hợp lý, hài 
hoà và có hiệu quả hai phương pháp này.
5/ Cơ sở thực tiển: 
 a) Chương trình và sách giáo khoa:
 Chương trình phân môn chính tả lớp 4, ngoài các tuần ôn tập thì các bài học 
 chính tả được trình bày trong 31 tuần. Mỗi tuần có một tiết, học kỳ 1 có 16 tiết, 
 học kỳ 2 có 15 tiết. Bài chính tả được bố chí song song với tập đọc, luyện từ và 
 câu, kể chuyện, tập làm văn. Bài chính tả gồm các dạng bài chính tả : nghe - 
 viết, nhớ - viết.
 * Chính tả đoạn bài:
 - Về nội dung: Bài viết chính tả có thể được trích từ bài tập đọc trước đó 
 hoặc là một nội dung tóm tắt của bài tập đọc, có thể là nội dung biên soạn mới 
 7 + Nối tiếng từ ngữ đã cho để tạo thành từ ngữ hoặc câu đúng.
 + Tìm từ ngữ chứa âm vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ 
đồng âm, từ trái nghĩa,
 Ngoài cáchính thức bài tập chính tả âm vần vừa nêu, ở sách lớp 4 có 
thêm một số hình thức chính tả mới như:
 + Tập phát hiện và sửa lỗi trong bài chính tả của em.
 + Ghi các lỗi và cách sửa từng lỗi vào sổ tay chính tả.
 + Xếp các từ ngữ cho sẵn thành hai cột (cột gồm các từ viết đúng và cột 
gồm các từ viết sai chính tả).
 + Tìm các từ láy có tiếng chứa âm hoặc thanh cho sẵn.
 + Viết lại các câu cho đúng chính tả.
 + Tìm các tính từ có âm đầu hoặc vần cho trước.
 + Tìm tiếng thích hợp với mỗi ô trống để hoàn thiện câu chuyện hoặc 
đoạn văn cho trước.
 + Tìm các trường hợp chỉ viết với một hình thức chính tả duy nhất 
(không có đối lập).
 Học sinh được tiếp cận với những kiến thức nêu trên sẽ được rèn những 
kĩ năng như sau:
 + Rèn kĩ năng viết chính tả và kĩ năng nghe cho học sinh.
 + Kết hợp rèn luyện một số kĩ năng sửng dụng Tiếng Việt và phát triển 
tư duy cho học sinh.
 + Mở rộng hiểu biết về cuộc sống, con người, góp phần hình thành 
nhân cách con người mới.
 * Các bài so sánh phụ âm đầu được sắp xếp như sau : 
 + l/n : Học kỳ I : 5 tiết ; Học kỳ II : 3 tiết.
 + s/x : Học kỳ I : 4 tiết ; Học kỳ II : 4 tiết 
 + tr/ch : Học kỳ I : 4 tiết ; Học kỳ II : 4 tiết 
 + r/d/gi : Học kỳ I : 3 tiết ; Học kỳ II : 4 tiết.
 Trong các phần trên học sinh Nam Bộ thường hay bị mắc lỗi s/x, tr/ch, 
r/d/gi là đa số, phần lớn l/n học sinh rất ít mắc lỗi.
 9 - Giáo viên : Bảng phụ, phiếu giấy khổ to (GV tự làm), bút dạ, SGK, SGV, 
các tài liệu tham khảo khác.
 - Học sinh : SGK, Vở BT Tiếng Việt, vở ghi, bảng con, bút chì, sổ tay 
chính tả,
 - Khâu soạn bài giáo viên sử dụng quá máy móc bài soạn hướng dẫn của 
 sách giáo viên mà không chế biến thành cụ thể cho phù hợp trình độ của lớp 
 mình. Một phần giáo viên không có đủ thời gian để nghiên cứu sáng tạo trong 
 tiết dạy thiết thực, vì rất nhiều công việc khác chi phối ảnh hưởng rất nhiều đến 
 việc soạn bài của giáo viên. Các hình thức chuẩn bị bài dạy đều phụ thuộc vào 
 các tài liệu có sẵn .
 - Vịêc quy định giáo viên phải soạn các giáo án chi tiết vừa không phù hợp 
 với điều kiện lao động của giáo viên vừa tạo ra hình thức đối phó hoặc soạn bài 
 một cách hình thức.
 Dạy học theo phương pháp như vậy đang cản trở việc đào tạo những người 
 lao động, năng động tự tin, linh hoạt sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với những đổi 
 mới diễn ra hàng ngày. Vì vậy đòi hỏi phải có biện pháp nhằm nâng cao hiệu 
 quả trong giờ dạy cũng như nhằm tích cực hoá các hoạt động học tập của học 
 sinh.
 Thực trạng như vừa phân tích cho thấy cần khai thác nội dung và lựa chọn 
hình thức thích hợp để nâng cao chất lượng dạy học chính tả nói riêng Tiếng 
Việt nói chung cho học sinh lớp 4 ở trường tiểu học Phong Tân chúng tôi đang 
công tác. Chính vì vậy chúng tôi đề xuất một số biện pháp khi dạy chính tả cho 
học sinh lớp 4 như sau:
6/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀI DẠY 
CHÍNH TẢ SO SÁNH PHỤ ÂM ĐẦU CHO HỌC SINH LỚP 4.
 6.1/ Những biện pháp chính:
 6.1.1/ Giáo viên phải chú trọng trong việc phát âm đúng:
 Theo tôi muốn rèn cho học sinh viết đúng chính tả, điều trước tiên nhất, 
cần nhất là giáo viên phải làm gương cho học sinh trong việc phát âm đúng. Cho 
nên giáo viên cấn phải thường xuyên luyện phát âm đúng bằng cách khắc phục 
 11

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_hieu_qu.doc